Chủ Nhật, 17 tháng 6, 2012

Hãy chứng minh sự nảy sinh và phát triển của tâm lý ý thức người


BÀI 2: SỰ NẢY SINH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TÂM LÝ Ý THỨC NGƯỜI
I/ SỰ NẢY SINH VÀ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ TRONG GIỚI ĐỘNG VẬT
Tâm lý là kết quả của sự phát triển vật chất lâu dài
Nhận xét :
Tâm lý không phải tự nhiên có mà tâm lý là kết quả của sự phát triển vật chất theo quy luật tất yếu của tự nhiên ( cụ thể : nó là kết quả của sự phát triển thuộc tính phản ánh theo quy luật tất yếu của vật chất đến trình độ cao). Là sản phẩm của sự tiến hoá lâu dài
Tâm lý không xuất hiện đồng thời cùng với sự sống, mà khi sự  sống xuất hiện mới có phản ánh sinh lý ( đặc trưng của phản ánh sinh lý: cơ thể sống chỉ phản ánh những gì ảnh hưởng trực tiếp đến nó ). Tuy nhiên , sự xuất hiện sự sống cùng với sự xuất hiện phản ánh sinh lý sẽ là cửa mở( đk thuận lợi) cho sự xuất hiện tâm lý sau này.
Các giai đoạn tâm lý ở động vật
-        Giai đoạn cảm giác: ( bắt đầu từ tế bào thần kinh lưới, động vật chân đốt ). Cảm giác là khả năng cơ thể sống phản ứng đáp lại từng kích thích trung gian riêng lẻ
à đặc trưng của giai đoạn cảm giác: là con vật không chỉ phản ứng với những tác động có ảnh hưởng trực tiếp đến sự sống mà nó còn phản ứng với những tác động có phản ứng trung gian – những tác động có tác động báo  hiệu không ảnh hưởng đến sự sống à vì vậy, con người sẽ phản ứng linh hoạt trong môi trường
-        Giai đoạn tri giác :  J ( bắt đầu từ động vật có não , đặc biệt là các loài động vật có vỏ não, bắt đầu từ bò sát ) L tri giác là khả năng cơ thể sống phản ánh một cách phức hợp và phản ánh trọn vẹn sự vậtà con người phản ánh chính xác sự, vật ít bị nhầm lẫn  
-        Giai đoạn tư duy cụ thể: (chỉ có ở động vật bậc cao) là khả năng phản ánh và xử lý mối quan hệ giữa các sự việc với nhau
Các kiểu hành vi động vật
-        Hành vi bản năng: (hành vi bẩm sinh, hành vi loài) là hình thái hành vi phức tạp, bẩm sinh , mang tính có ích sinh vật truyền lại bằng di truyền .
Vd : con ong hút mật , xây tổ
+ Cơ sở sinh lý của nó là những phản xạ có điều kiện
+ Hành vi bản năng rất đa dạng , gắn với nhu cầu sinh vật thiết yếu của con vật
+ Nó mang tính định hình nhưng không rập khuôn nhất định ( tuy nhiên sự thay đổi bản năng là không thể . Mà muốn thay đổi cần: thay đổi đk sống dáng kể , có thời gian tính bằng thế hệ. Có thể thay đổi nhưng rất khó )
-    
    Hành vi tập hành: là hành vi do học tập mà có
Cơ sở sinh lý là những phản xạ có điều kiện, chỉ có ở những loài có vỏ não
Đặc điểm :
gắn liền với hành vi bản năng (trong hành vi tập hành luôn có tác động của hành vi bản năng)
            Hành vi tập hành của động vật mang tính mềm dẻo nhất định
-     
        Hành vi trí tuệ động vật:  là hành vi trên cơ sở phản ánh mối liên hệ giũa các sự vật con vật giải quyết những vấn đề mà nó chưa từng trong kinh nghiệm sống trước đây, đây là kiểu hành vi luôn được đánh giá là mềm dẻo, linh hoạt hợp lý nhất của đọng vật trong đk sống luôn thay đổi
+ cơ sở sinh lý: sự phát triển phức tạp của vỏ não
+ đặc điểm:
·        Chỉ thể hiện khi gặp tình huống cần giải quyết
·        Nó không phải là kiểu hành vi chủ yếu ở động vật.
·        Ở động vật bậc cao, nó cũng không phải là hành vi chủ yều vì nó cũng chỉ thể hiện hành vi trí tuệ khi mà bản năng, tập hành (nếu có) không giúp nó giải quyết kịp nhiệm vụ
·        Mang tính trải nghiệm , không xuất phát từ những sự hiểu biết của các quy luật khách quan cuả tự nhiên
·        Mang tính cá biệt hoá ( mỗi con người có cách giải quyết khác nhau , không tuyền lại cho đời sau , không phải là sản phẩm của đồng loại mà là sản phẩm của cá nhân)
è Hành vi trí tuệ đv tư duy cụ thể là những mức độ phát triển tâm lý cao nhất ở động vật con vật , vì không có nguyên nhân nên nó suốt đời lệ thuộc vào hoàn cảnh và phụ thuộc vào những nhu cầu thiết yếu của con vật. Đây là mức độ phát triển tâm lý cuối cùng ở động vật   
II/SỰ NẢY SINH VÀ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ Ý THỨC NGƯỜI


2.1/ ý thức là gì?
Sự phản ánh của tâm lý ý thức người có 2 mức độ:
                        Mức độ cao : ý thức
                        Mức độ thấp: vô thức


Vô thức là sự phản ánh đặc trưng của sự phản ánh hiện tượng khách quan mà chủ thể không hiểu được nguyên nhân gây ra cảm giác hay hành vi của mình cũng như mục đích mà hành động ấy nhắm tới à có cả ở người và động vật


Ý thức là khả năng con người hiểu được cái mà mình đã phản ánh, tiếp thu( phản ánh của phản ánh, phản ánh bậc cao, chỉ có ở con người) . Nhờ có mức độ này con người sẽ hiểu được bản chất đối tượng , nhận thức được kết quả về đối tượng. Dự kiến trước được hành vi của mình với đối tượng. Cho nên hoạt động của con người sẽ mang tính chủ định. Ý thức sẽ giúp con người tỏ thái độ với thế giới, điều khiển điều, chỉnh hành vi của mình ở mức độ cao có khả năng tự ý thức về mình
  è   Ở con người ý thức và vô thức cùng tồn tại , bổ sung cho nhau, chuyển hoá lẫn nhau để cùng điều chỉnh hành vi con người. Nhưng ở con người ý thức luôn giữ vai trò chủ đạo. Nên tâm lý người dù vô thức hay ý thức thì cũng được gọi là tâm lý ý thức

2.2/ Sự nảy sinh của tâm lý ý thức
-toàn bộ quá trình tiến hoá của vật chất và gần nhất là sự tiến hoá sinh vật đã chuẩn bị cho sự nảy sinh ý thức con người. Tuy nhiên, tâm lý ý thức người không phải là sản phẩm trực tiếp của sự tiến hoá sinh vật. Vai trò của lao động là yếu tố quyết định cho sự nảy sinh tâm lý người.


- Vai trò của lao động : quyết định trực tiếp sự nảy sinh ra ý thức
+làm phát triển đôi bàn tay: tiến hành thao tác lao động và sử dụng công cụ lao động, không chỉ là cơ quan lao động ,mà là cơ quan nhận thức . Trong lao động bàn tay con người phát triển cao độ  
+ Phát triển não bộ: khi tiến hành lao động, trên vỏ não sẽ xuất hiện các khu chức năng tương ứng à qua lao động bộ não con người ngày càng tinh vi hơn
+phát triển các giác quan khác:  các giác quan khác không còn là giác quan thuần ĐV nữa mà là khí quan xã hội
     ð  Sự phát triển về đôi bàn tay, giác quan khác là tiền đề vật chất cho sự phát triển tâm lý
+ xuất hiện nhu cầu giao tiếp: (yếu tố quan trọng nhất) vì có sự phân công lao động, truyền đạt thông tinà nhu cầu giao tiếp è xuất hiện ngôn ngữ để làm phương tiện giao tiếp. Khi ngôn ngữ ra đời thì tư duy của con người là tư duy ngôn ngữ ( con người sẽ có khả năng tư duy bằng ngôn ngữ, phản ánh bằng ngôn ngữ ) à hoạt động của con người trở nên có kế hoạch, có mục đích  à hoạt động của con người trở nên có ý thức, làm chủ được tự nhiên xã hội => ý thức ra đời
+trước -trong –khi khi lao động ý thức được phát triển. Cuộc đời con người là một chuỗi lao động . trước lao động : tìm hiểu về đối tượng, trong lao động: tìm hiểu, nắm bắt đối tượng . Sau lao động: ý thức về bản thânà ý thức của con người đã được phát triển trong suốt quá trình lao động. Cho nên sự nảy sinh phát triển tâm lý ý thức người  ngoài tiền đền sinh còn có tiền đề lao động à tâm lý ý thức người


2.3/ Chiều hướng phát triển tâm lý ý thức người
- chiều hướng thứ nhất: quá trình thường xuyên phát triển và hoàn thiện nhận thức con người à tư duy của con người đã ngày một hoàn thiện  hơn theo sự phát triển của lực lượng sản xuất
- chiều hướng thứ 2: sự thay đổi về xu hướng giai cấp trong ý thức loài người


2.4/ lịch sử phát triển ý thức của từng con người
Có sự lặp lại một cách độc đáo sự phát triển tâm lý của loài, ý thúc cá nhân được hình thành trong hoạt động


Các giai đoạn phát triển ý thức cá nhân
-từ 0 đến 2 tuổi: chưa có ý thức , chỉ có chức năng tâm lý trực tiếp, tự nhiên,cấp thấp, không chủ định (bản năng)
- từ 2 đến 3 tuổi : bắt đầu có ý thức và sẽ phát triển trong suốt quá trình trưởng thành.
            Trong quá trình luyện tập các giác quan nhận thức cảm tính về thế giới , dần dần nhận thức lý tính về thế giới, dần dần cải tạo thế giới , sáng tạo ra thế giới
            Phát triển khả năng tự ý thức : ý thức ban đầu của đứa trẻ nặng về cảm giác thân thể dần dần tách mình ra khỏi xung quanh và nhận thức về mình như một chủ thể. Khả năng ý thức được thể hiện qua trò chơi đóng vai
-Từ 18 tuổi trở lên: con người sẽ ý thức hoàn toàn về mình , ý thức được việc mình hoạt động và vì sao mình phải hoạt động
  

Thứ Bảy, 16 tháng 6, 2012


Bài 39: Phong trào yêu nước và cách mạng Việt Nam đầu thế kỉ XX

1. Hoạt động cứu nước của Phan Bội Châu 
- Nguyên nhân: Nhật Bản cùng màu da, cùng văn hóa Hán Học (đồng chủng, đồng văn), lại đi theo con đường tư bản châu Âu, giàu mạnh lên và đánh thắng đế quốc Nga (1905).
- Lãnh đạo:Phan Bội Châu
- Nét chính hoạt động của phong trào Đông du:
+ Từ năm 1905 đến 1908, đưa HS Việt Nam sang Nhật học,có thời điểm lên tới 200 người.
+ Từ tháng 9/1908, thực dân Pháp cấu kết và yêu cầu Nhật trục xuất những người Việt Nam yêu nước khỏi đất Nhật.
+ Tháng 3/1909, Phan Bội Châu cũng phải rời đất Nhật. Phong trào Đông du tan rã. Hội Duy tân ngừng hoạt động.
- Nguyên nhân thất bại: Do các thế lực đế quốc (Nhật - Pháp) cấu kết với nhau để trục xuất thanh niên yêu nước Việt Nam ở Nhật.

2. Hoạt động cứu nước của Phan Châu Trinh

+ Lãnh đạo:Phan Châu Trình, Huỳnh Thúc Kháng ...
+ Hình thức hoạt động: mở trường diễn thuyết về các vấn đề xã hội, cổ vũ theo cái mới: cắt tóc ngắn, mặc áo ngắn, cổ động mở mang công thương nghiệp...
- Nguyên nhân phong trào :
+ Do chính sách cai trị tàn bạo của thực dân Pháp, nông dân vô cùng khốn khổ về các thứ thuế.
+ Ảnh hưởng của cuộc vận động Duy tân...

3. Đông Kinh nghĩa thục

- Lãnh đạo:Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Lê Đại.
- Phạm vi hoạt động: Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình ...
- Các hoạt động chính: mở trường học các môn học Địa lí, Lịch sử, Khoa học thường thức; tổ chức các buổi bình văn, xuất bản sách báo ...
- Về hoạt động: phạm vi rộng bao gồm nhiều tỉnh; hoạt động trên nhiều lĩnh vực: dạy học, bình văn, xuất bản sách báo ...
- Nội dung dạy và học:Có một số môn học mới: khoa học thường thức, thể dục thể thao, văn nghệ ...
- Thực chất của các hoạt động này là sự chuẩn bị chống Pháp, tuyên truyền tư tưởng dân chủ tư sản, đả phá nền giáo dục lỗi thời, cổ vũ cái mới.

4. Vụ đầu độc binh lính Pháp tại Hà Nội.

- Nguyên nhân:
+ Họ bị phân biệt đối xử. Khi ra trận làm bia đỡ đạn.
+ Phải đàn áp bà con, làng xóm mình.
+ Được các tầng lớp sĩ phu yêu nước vận động binh lính.
- Diễn biến:Ngày 27/6/1908 vụ đầu độc tiến hành, hơn 200 sĩ quan, binh lính trúng độc.
- Tác động: gây tâm lí hoang mang, lo sợ trong sĩ quan binh lính Pháp.
- Ý nghĩa: Thể hiện tinh thần yêu nước và ý thức dân tộc và khả năng tham gia phong trào đấu tranh của binh lính Việt Nam trong quân đội Pháp.

5. Những năm cuối cùng của khởi nghĩa Yên Thế

- Tháng 11/1909, thực dân Pháp dồn lực lượng tấn công Phồn Xương.
- Ngày 10/2/1913, Đề thám bị tay sai Pháp bắt sát hại. Khởi nghĩa nông dân Yên Thế chấm dứt.
Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam . Cuộc kháng chiến ở Đà Nẵng và Gia Định ( 1858-1859)


1. Âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của Pháp
Nguyễn Ánh, sau khi lên ngôi (1802) lấy hiệu Gia Long đã có các chỉ dụ đặc biệt ưu ái đối với các giáo sĩ người Pháp. Tuy vậy, sự hoạt động ráo riết của các thế lực theo đạo thiên chúa và các cố đạo người Âu đã khiến Gia long lo ngại, cảnh giác và đề phòng. Năm 1817. Gia long đã cự tuyệt việc yết kiến của phái bộ Pháp do Lu-i XVIII cử đến, đồng thời cũng cự tuyệt luôn ý đồ của người Pháp muốn thương thuyết trên cơ sở hiệp ước Véc xây. Nhưng rồi nước Pháp ngày càng bị tụt hậu so với Anh về vấn đề thuộc địa, nhất là khi người Anh đã có mặt tại Sinhgapo (1819) rồi đang ráo riết mở các cuộc tấn công vào nội địa Trung quốc - điều đó càng khiến cho Pháp phải nhanh tay hành động, nhằm tìm cách đứng chân ở một căn cứ nào đó gần bể Trung Quốc và sau đó tìm cách chiếm lấy một thuộc địa ở gần Trung Quốc để có thể tham gia vào việc tranh chấp miếng mồi béo bở, đầy hấp dẫn này.

Dưới thời Minh Mạng (1820-1840) đã mấy lần Pháp cử lãnh sự cùng Sứ giả sang Việt Nam yêu cầu thông thương nhưng đã bị từ chối.
Lấy cớ triều đình Việt nam cự tuyệt bang giao và giết giáo sĩ, giáo dân, chính phủ Pháp quyết định dùng vũ lực để thực hiện tham vọng của mình.
Về phía Việt nam thì từ năm 1840 khi Miên Tôn (Thiệu Trị) nối ngôi Phúc Đảm (Minh Mạng), việc cấm đạo tuy có nới tay hơn, nhưng Pháp không vì thế mà ngừng ý đồ xâm lược.

Vốn đã có dã tâm can thiệp vào công việc nội bộ Việt nam từ lâu và đã từng thị phi về vấn đề kế vị Gia long(1), từng kích động sự chống đối của Lê Văn Duyệt với Minh Mạng(2), nay Pháp lại tiếp tục sử dụng con bài công giáo để gây dư luận.

Sau năm 1840, Tạp chí Truyền giáo (Les Annales de la Propagation de la foi) của Hội truyền giáo nước ngoài Paris đã đem những việc sát hại giáo sĩ và giáo đồ ra tuyên truyền, khiến cho một bộ phận thuộc phái hữu xôn xao.Họ yêu cầu chính phủ Pháp phải hành động ngay bằng vũ lực để bảo vệ giáo sĩ và giáo dân Việt Nam.

Ngoài các chiến dịch tuyên truyền tại Pháp, Hội truyền giáo hải ngoại Pháp còn kích động những phần tử bất hảo trong số gần 50 vạn giáo dân, liên tiếp gây ra các vụ rắc rối, gây hận thù lương - giáo, vi phạm luật lệ triều đình... cố làm mục ruỗng xã hội Việt nam bằng cách chia rẽ nội bộ dân tộc ta, đi tới thủ tiêu tinh thần kháng chiến cũng như sức đề kháng của nhân dân ta trước quân xâm lược. Tiến thêm một bước, ngày 25/2/1843 tàu chiến Pháp Heroine vào Đà nẵng. Hạm trưởng Favin Lơvêque xin tha cho 5 giáo sĩ bị kết án tử hình đang còn bị giam ở Phú Xuân... 

Năm 1845 thiếu tướng hải quân Cécile chỉ huy hạm đội Đông Hải phái tàu Alemêne đến Đà Nẵng, yêu cầu thả giám mục Le febvere bị kết án tử hình đang bị giam tại Huế.

Năm 1847 biết ở Phú Xuân không còn có giáo sĩ nào bị giam nữa, chính phủ Pháp mới sai đại tá hải quân Lepierre lên thay Cecile phản đối việc cấm đạo ở Việt Nam và yêu cầu Thiệu Trị để cho dân được tự do theo tôn giáo mới.

Tháng 3 - 1847 hai tàu chiến Pháp tới Đà nẵng. Thuyền trưởng và giáo sĩ Pháp ngang nhiên đi thẳng vào công quán đe dọa. Trấn thủ Đà Nẵng, một mặt không chịu nhận thư của đại diện Pháp, mặt khác ra lệnh cho binh lính sẵn sàng đối phó. Thấy vậy Lapierre đã ra lệnh cho hai tàu chiến Pháp bắn phá 5 chiếc tàu đồng của quân ta rồi cho nổ neo kéo buồm ra khơi. Ngày 15/7/1847 chiến hạm Pháp lại kéo đến bắn phá dữ dội các chiến thuyền của triều đình đậu tại Đà Nẵng. Tình thế trở nên căng thẳng.

Nghe tin quân Pháp hành hung tại Đà Nẵng. Vua Thiệu Trị vô cùng tức giận đã hạ dụ: ”cấm đạo sát tả” (cấm đạo, giết giáo dân) để đối phó, rồi ra lệnh cho các nơi chỉnh trang quân bị, chế tạo thêm khí giới để chuẩn bị kháng chiến.

Tháng 11/1847 Hồng Nhậm (Tự Đức) lên ngôi. Lệnh cấm đạo vẫn tiếp tục được duy trì và có phần còn ráo riết hơn trước. Các giáo sĩ ngoại quốc có nguy cơ không còn chỗ dung thân. Chiến tranh tưởng chừng đã nổ ra đến nơi.Nhưng một lần nữa ở châu Âu, cách mạng Pháp 1848 lại bùng nổ, tư bản Pháp mắc việc ở trong nước nên chưa thực hiện được kế hoạch xâm lăng Việt Nam.

Năm 1852, Lu-i Bô-na-pác (Luis Bonaparte) được sự ủng hộ của cánh đại tư sản phản động ở Pháp lên ngôi hoàng đế lập ra đế chế III, xưng là Na-pô-lê-ông III. Việc chuẩn bị xâm lược Việt nam của Pháp được đẩy mạnh thêm một bước. Năm 1856 Mông-ti-nhi (De Montigni) được vua Pháp Na-pô-lê-ông III phái đến công cán tại khu vực ấn Độ, Trung Quốc, mục đích là điều đình để ký các hiệp ước thương mại thân thiện với Xiêm, thương nghị với vua Việt Nam về việc giao hiếu và thông thương, nhưng vì mắc việc tại Xiêm, Môngtinhi đã phái Lơ-Li-ơ-dơ (LeLieur) hạm trưởng tàu Catinat đem thư trước tới Việt Nam. Ngày 21/9/1856 tàu Catinat tới cửa biển Đà nẵng. Quan trấn thủ Đà Nẵng lại khước từ không tiếp nhận bức thư của Pháp. Lơ-Li-ơ dơ tức giận sai phá các thành lũy của quân ta. Ngày 24 tháng 10 năm 1856 một tuần dương hạm khác do Cô-li-ê chỉ huy lại đến Đà nẵng trực tiếp gửi thư hăm doạ quan đầu tỉnh Quảng Nam. Sau đơ ít lâu, ngày 23/1/1857 Mông ti nhi tới Việt nam. Sau nửa tháng thương thuyết không có kết quả Mông-ti-nhi bỏ về nước. Cùng về Pháp với Mông-ti-nhi có giám mục Pen-lơ-ranh (Pellerin), bấy lâu nay vẫn lẩn lút ở Việt Nam và trốn được xuống tàu Catinat. Pen-lơ-ranh đem tình hình cấm đạo và sát tả ở Việt Nam ra tuyên truyền rồi ra sức xúi dục Chính phủ Pháp hành động bằng vũ lực.

Ngay sau đó, một cơ quan chuyên nghiên cứu vấn đề Việt Nam của Pháp đã được lập ra vào ngày 22-4-1857 lấy tên là Uỷ ban Nam kì. Lá cờ ”bảo hộ công giáo” được giương lên để chuẩn bị cho cuộc hành binh xâm lược.
Chỉ mấy ngày sau khi thành lập, theo lệnh của Na-pô-lê-ông III Uỷ ban Nam Kì đã họp ròng rã ba tuần liền (từ 28-4-1857) để quyết định kế hoạch đánh chiếm Việt Nam.Trong các cuộc họp này Uỷ ban Nam kì đã toan dựa vào văn bản của hiệp ước Véc-xây (1787) để hợp pháp hoá việc đem quân xâm lược nước ta và chủ trương điều động gấp rút quân đội sang chiếm ba đô thị lớn là Sài gòn, Đà nẵng và Kẻ Chợ (Hà Nội) biến Việt Nam thành đất thuộc Pháp, biến triều đình Nguyễn thành tay sai, phục vụ đắc lực lợi ích của bọn thực dân...

Tháng 7-857 Na-pô-lê-ông duyệt y kế hoạch xâm lược vũ trang của uỷ ban Nam kì, giao cho Bộ hải quân Pháp thực hiện. Vừa lúc có hai giáo sĩ Tây Ban Nha bị triều đình Nguyễn sát hại ở Bắc kỳ (hai giáo sĩ này cùng hoạt động trong Hội truyền giáo nước ngoài Pháp), Na-pô-lê-ông III và Giáo hội Pháp đã thương nghị với Chính phủ Tây Ban Nha phối hợp hành động.

Tháng 7-857 Na-pô-lê-ông duyệt y kế hoạch xâm lược vũ trang của uỷ ban Nam kì, giao cho Bộ hải quân Pháp thực hiện. Vừa lúc có hai giáo sĩ Tây Ban Nha bị triều đình Nguyễn sát hại ở Bắc kỳ (hai giáo sĩ này cùng hoạt động trong Hội truyền giáo nước ngoài Pháp), Na-pô-lê-ông III và Giáo hội Pháp đã thương nghị với Chính phủ Tây Ban Nha phối hợp hành động.

2. Liên quân Pháp - Tây Ban Nha nổ súng xân lược Việt Nam

Chiều ngày 31/8/1858 liên quân Pháp - Tây Ban Nha do Rigault de Genouilly (Giơnuiy) chỉ huy dàn trận trước cửa biển Đà nẵng. Quân Pháp có 2.500 tên, bố trí trên 13 chiếc thuyền được trang bị vũ khí hiện đại. Tây Ban Nha góp thêm 1 chiến thuyền và 450 lính.

Dụng ý của Pháp là sau khi chiếm được Đà nẵng, sẽ tiến thẳng ra Huế, buộc triều đình Huế đầu hàng bẻ gãy ý chí kháng chiến của đối phương.
Sáng ngày 1/9/1858 Pháp gửi tối hậu thư cho quan trấn thủ thành Đà nẵng là Trần Hoàng hạn trong 2 giờ đồng hồ phải trả lời. Vì phải đợi lệnh triều đình nên Trần Hoàng cứ án binh bất động. Chưa hết 2 giờ hẹn quân Pháp đã nổ súng dữ dội bẵn phá các mục tiêu trên bờ rồi đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà.

Quân các đồn bên ta bắn trả nhưng vì vũ khí lạc hậu nên không gây cho quân địch tổn thất.

Được tin bán đảo Sơn Trà rơi vào tay giặc, Tự Đức lệnh cho các quân thứ cấp tốc tiếp ứng. Nguyễn Tri Phương (đang làm kinh lược sứ lục tỉnh Nam Kì) được điều ra làm Tổng thống quân thứ Quảng Nam, gấp rút chấn chỉnh quân ngũ và thống nhất chỉ huy chống giặc. Nguyễn Tri Phương cho thực hiện kế hoạch gồm hai điểm chính: Thứ nhất là tổ chức cho dân lùi sâu vào nội địa, làm vườn không nhà trống, triệt để bất hợp tác với giặc. Thứ hai là triệt để phòng ngự, ra sức đào hào đáp luỹ cản giặc, không cho giặc đánh lan ra.

Hưởng ứng kế hoạch của Nguyễn Tri Phương, các lực lượng dân binh cùng nhân dân địa phương ra sức đào hào đắp lũy, phối hợp với quân của triều đình chặn đánh tàu địch. Những đội dân quân bao gồm “tất cả những người không đau yếu và tàn tật” được thành lập, chiến đấu vô cùng quả cảm.

Phối hợp với mặt trận Đà nẵng, nhân dân Nam bộ cùng với quân đội triều đình cơi cao thêm thành lũy,củng cố thêm hệ thống phòng thủ. Đội nghĩa binh của Trương Định được tập hợp, ra sức tập luyện, chuẩn bị đánh Pháp. 

Tiếng súng xâm lăng của quân Pháp ở Đà Nẵng đã thổi bùng ngọn lửa yêu nước trong nhân dân. Đốc học Nam Định Phạm Văn Nghị tập hợp 300 người - vốn là những học trò của mình, khăn gói lên đường Nam tiến, xin Vua ra chiến trường giết giặc.

Nhờ có sự ủng hộ tích cực của nhân dân, Nguyễn Tri Phương đã tạm thời đẩy lui được quân địch ở Đà Nẵng, dồn chúng về phía biển. Thêm vào những tổn thất bước đầu do cuộc kháng chiến anh dũng của nhân dân Việt Nam gây nên là sự khắc nghiệt về thời tiết, thuỷ thổ khiến quân Pháp bị ốm đau rất nhiều.

Sau 5 tháng hành binh xâm lược, quân Pháp chỉ chiếm được bán đảo Sơn Trà và đồn Đông. Kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của chúng bước đầu bị phá sản. Tuy nhiên đại quân của Nguyễn Tri Phương, do áp dụng chiến thuật phòng thủ bị động nên cũng không tiêu diệt được hết quân thù và cũng không đuổi được chúng ra khỏi Đà Nẵng.

Bị thất bại trong kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh tháng 2-1859 Giơnuiy buộc phải để một toán quân nhỏ ở lại Đà Nẵng còn mình thì kéo đại quân vào Gia Định, nhằm cắt nguồn tiếp tế lương thực của triều đình Huế, đồng thời cũng để chuẩn bị cho việc mở rộng cuộc hành quân sang Căm Pu Chia 

Chiếm lục tỉnh Nam kỳ, quân Pháp một mặt muốn gấp rút phong toả miền Nam Việt Nam, nơi mà tư bản Anh sau khi chiếm Singapo và Hương cảng cũng đang gấp rút nhòm ngó, đồng thời chúng còn tính tới một tương lai xa hơn: thăm dò đường sông Mêkông, tìm đường thâm nhập vào vùng Tây Nam Trung quốc - một thị trường rộng lớn, dân cư đông đúc và còn lạc hậu. Vào Tây Nam Trung quốc theo con đường này sẽ tránh cho Pháp khỏi phải chạm trán với người Anh ở vùng ven biển Trung Hoa, nhất là không phải đọ súng với lực lượng hải quân đáng gờm của họ.

Ngày 9/2/1859 quân Pháp tập trung ở Vũng tàu gồm 20 chiến thuyền trong đó có 4 tàu buôn chở lương thực.

Ngày 10/2 chúng công phá pháo đài Phúc Thắng ở núi Lại Sơn (thuộc tỉnh Biên hòa). Sau đó tàu Pháp theo sông Cần Giờ tiến vào Gia Định. Trong vòng 6 ngày liên tiếp, quân Pháp vừa đi vừa đánh phá các đồn bốt và các ụ cản trên sông. Sáng 17/2/1859, chiến thuyền địch tập trung hỏa lực bắn vào thành Gia Định - một thành lũy được xây dựng từ khi Nguyễn Ánh lấy lại được đất Nam Kỳ. Thời Minh Mạng (1837) thành được xây lại, theo hình vuông, mỗi chiều 475 thước, tường thành được xây bằng đá ong, gạch, đất...

Lúc quân Pháp đến, trong thành có khoảng 1.000 quân Nguyễn và chứa đầy khí giới, lương thực đủ cung cấp cho khoảng 10.000 quân giữ thành trong 1 năm.

Trận chiến diễn ra dữ dội trong suối buổi sáng ngày 17/2. Đến khoảng giữa trưa quân ta phải rút, bỏ lại trong thành 200 đại bác bằng đồng và bằng gang, 20.000 vũ khí các loại, 86.000 kg thuốc súng, 9 chiến thuyền đã đóng và đang đóng nằm dưới ụ. Sau khi Gia Định thất thủ. Vũ Duy Ninh là quan trấn thủ thành sợ trách nhiệm đã treo cổ tự tử, mở đầu cho một chuỗi tự sát của một bầy tôi bất lực dưới trướng Tự Đức.

Trong khi quân Nguyễn liên tiếp thất bại, phải rút quân thì thực dân Pháp lại rơi vào thiên la địa võng của cuộc chiến tranh nhân dân ở Nam bộ. Chúng phải giăng lực lượng ra để đối phó với nhiều toán dân binh mọc lên ở khắp nơi ví như toán quân của Lê Huy (trước là quân nhân bị thải hồi), toán quân của Trần Thiện Chính (trước là tri huyện bị triều đình cách chức). Dân các vùng đất mà Pháp chiếm được đều tự tay thiêu huỷ nhà cửa bỏ đi hoặc tự động tổ chức thành đội ngũ đánh giặc.

Giữa lúc đó, toán quân Pháp còn lại ở Đà nẵng cũng đang trong tình thế nguy cấp, giặc phải gấp rút đưa đại binh từ Gia Định ra cứu viện chỉ để lại ở đây một lực lượng nhỏ. Vừa ra đến Đà Nẵng, để củng cố tinh thần binh lính Giơ-nui-y quyết định mở cuộc tấn công vào các đồn Điện Hải, Phúc Ninh, Thạch Giản, mong giành lại thế chủ động nhưng bị thất bại. Gần 100 quân Pháp và Tây Ban Nha bỏ mạng.

Trong tình thế hết sức khốn đốn: bị quân dân Việt Nam bao vây; viện binh không có; chiến tranh Pháp - Áo đã nổ ở châu Âu từ tháng 4-1859; cuộc xung đột Anh - Pháp ở Đông Dương có thể xảy ra và lúc đó số quân Pháp ở Đà nẵng chắc chắn sẽ bị tiêu diệt...

Trong một tình thế bức bách, chính phủ Pháp đã phải ra lệnh cho Giơ-nu-y đưa thư nghị hòa với triều đình Huế.

Để gây áp lực với triều đình, song song với việc đưa thư nghị hoà, Giơnuiy đưa quân đánh phá các vùng ven biển thuộc các tỉnh Bình Định, Quảng Bình, Quảng Trị...

Thái độ bất ngờ của phía Pháp đã gây nên một cuộc bàn luận sôi nổi trong cơ mật viện của triều đình Huế. “Người bàn chiến”, “kẻ bàn hòa”, vô số ý kiến trái ngược nhau, không sao thống nhất (3).

Thương thuyết chưa xong thì liên quân Anh - Pháp khai chiến với Trung Hoa. Hạm đội Pháp phải tham chiến ở Hoàng Hải. Pháp chỉ để lại một ít quân lại chiếm giữ thành Gia định để cầm cự với quân ta còn thì dồn cả sang chiến trường Trung Quốc.

Trước khi rút, Pháp mở rộng phạm vi chiếm đóng quanh thành Gia định, chiếm Chợ lớn - trung tâm thương mại của Nam kỳ lục tỉnh lúc bấy giờ.
Mặc dù với một lực lượng ít ỏi, chỉ chưa đầy 1.000 quân nhưng nhờ chiến thuật ”thủ để hòa” (cố thủ rồi thương thuyết) của triều đình Nguyễn, nên 1.000 quân Pháp vẫn ung dung đi lại, xuôi ngược trên các dòng sông, ra bể, buôn bán kiếm lời, vừa để nuôi quân vừa để mua chuộc một số người giao thương với chúng, biết được tình hình nội địa của ta, dụ được một số người làm tay sai, tạo thêm điều kiện để mở rộng cuộc xâm lăng.

Trong lúc đó, dưới quyền chỉ huy của tổng thống quân vụ đại thần Nguyễn Tri Phương có tới hàng vạn quân song không chủ trương tranh thủ thời cơ tấn công tiêu diệt địch mà suốt trong 1 năm (1860) Nguyễn Tri Phương một mặt án binh bất động, mặt khác chỉ chú tâm huy động quân đội và dân binh xây dựng Đại Đồn (Chí Hòa) với thành lũy kiên cố, tưởng rằng như vậy sẽ có thể làm nản ý chí xâm lăng của giặc. Sự sai lầm trong chiến lược phòng ngự bị động này đã khiến Nguyễn Tri Phương đã không những không đuổi được 1.000 quân giặc đóng trên phòng tuyến các chùa (từ Thị Nghè đến Mai Sơn) dài 10 cây số, có chỗ ta địch cách nhau chưa đầy 500 mét, mà ngược lại, Đại đồn vô hình đã biến thành một cái rọ 3 cây số vuông nhốt hàng ngàn binh lính, chuẩn bị làm mồi cho đạn đại bác có hạt nổ của địch.


Bài 35: Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1858-1884)


I. Kháng chiến ở Đà Nẵng và các tỉnh Nam Kì
1. Trên Mặt trận Đà Nẵng 1858; chiến sự ở Gia Định từ năm 1859 đến năm 1862 (gộp mục 1, 2)

2. Cuộc kháng chiến tiếp tục sau Hiệp ước 1862. Kháng chiến ở miền Tây Nam Kỳ

II. Kháng chiến ở Bắc kỳ lần thứ nhất (1873)
1. Tình hình Việt Nam trước khi Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất.
- Sau khi Pháp chiếm 6 tỉnh Nam Kỳ (1867 tình hình nước ta càng khủng hoảng nghiêm trọng).
+ Về chính trị: Nhà Nguyễn tiếp tục chính sách bảo thủ "bế quan tỏa cảng". Nội bộ quan lại phân hóa bước đầu thành 2 bộ phận chủ chiến, chủ hòa
+ Kinh tế: Ngày càng kiệt quệ.
+ Xã hội: nhân dân bất bình đứng lên đấu tranh chống triều đình ngày càng nhiều.
+ Nhà Nguyễn cự tuyệt những chủ trương cải cách.

2. Cuộc kháng chiến ở Hà Nội và các tỉnh đồng bằng sông Hồng.

- Sau khi thiết lập bộ máy cai trị ở Nam Kỳ, Pháp âm mưu xâm lược Bắc Kỳ.
- Pháp cho gián điệp do thám tình hình miền Bắc.
- Tổ chức các đội quân nội ứng.
- Lấy cớ giải quyết vụ Đuy-puy đang gây rối ở Hà Nội, thực dân Pháp đem quân ra Bắc.
- Ngày 5/11/1873 đội quân Tàu chiến của quân Pháp do Gác-ni-e chỉ huy đến Hà Nội, giở trò khiêu khích quân ta.
- Ngày 19/11/1873 Pháp gửi tối hậu thư cho Tổng đốc thành Hà Nội.
- Không đợi trả lời 20/11/1873 Pháp tấn công thành Hà Nội => chiếm được thành, sau đó mở rộng đánh chiếm các tỉnh đồng bằng sông Hồng.
- Triều đình : Khi Pháp đánh thành Hà Nội, 100 binh lĩnh đã chiến đấu và hi sinh anh dũng tại Ô Quan Chưởng.
- Trung thành, Tổng đốc Nguyễn Tri Phương chỉ huy quân sĩ chiến đấu dũng cảm => Nguyễn Tri Phương hi sinh, thành Hà Nội thất thủ, quân triều đình nhanh chóng tan rã.
- Phong trào kháng chiến của nhân dân:
+ Khi Pháp đến Hà Nội, nhân dân chủ động kháng chiến, không hợp tác với giặc.
- Khi thành Hà Nội thất thủ, nhân dân Hà Nội và nhân dân các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ vẫn tiếp tục chiến đấu => buộc Pháp phải rút về các tỉnh lị cố thủ.
+ Ngày 21/12/1873, quân ta phục kích ở Cầu Giấy, Gác-ni-ê tử trận => Thực dân Pháp hoang mang chủ động thương lượng với triều đình.
- Năm 1874,triều đình kí với thực dân Pháp Hiệp ước Giáp Tuất, dâng toàn bộ 6 tỉnh Nam Kỳ cho Pháp.

3. Tình hình nước ta sau Hiệp ước 1874

- Hiệp ước gây nên làn sóng bất bình trong nhân dân => Phong trào kháng chiến kết hợp giữa chống thực dân với chống phong kiến đầu hàng.
- Nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra ở Bắc Kỳ, tiêu biểu nhất là cuộc khởi nghĩa của Trần Tấn, Đặng Như Mai ở Nghệ - Tĩnh.
- Nội dung chống phong kiến ngày càng rõ nét trong phong trào đấu tranh của nhân dân.
III. Nhân dân Bắc Kì và Trung Kì tiếp tục kháng chiến
1. Thực dân Pháp đánh chiếm Bắc Kì lần thứ hai (1882 - 1883)
- Năm 1882, Pháp vu cáo triều đình Huế vi phạm Hiệp ước 1874 để lấy cớ kéo quân ra Bắc.
- Ngày 3/4/1882, Pháp bất ngờ đổ bộ lên Hà Nội.
- Ngày 25/4/1882, Pháp nổ súng chiếm thành Hà Nội.
- Tháng 3/1883, Pháp chiếm mỏ than Hồng Gai, Quảng Yên, Nam Định.

2. Nhân dân Bắc Kỳ chống Pháp chiếm đóng lần thứ hai

- Quân quân triều đình và Hoàng Diệu chỉ huy quân sĩ chiến đấu anh dũng bảo vệ thành Hà Nội => thành moất, Hoàng Diệu hi sinh. Triều đình hoang mang cầu cứu nhà Thanh.
- Nhân dân dũng cảm chiến đấu chống Pháp bằng nhiều hình thức:
+ Các sĩ phu không thi hành mệnh lệnh của triều đình tiếp tục tổ chức kháng chiến.
+ Nhân dân Hà Nội và các tỉnh tích cực kháng chiến bằng nhiều hình thức sáng tạo.
+ Tiêu biểu có trận phục kích Cầu Giấy lần hai 19/5/1883 => Ri-vi-e bỏ mạng, cổ vũ tinh thần chiến đấu của nhân dân.

3. Quân Pháp tấn công vào cửa biển Thuận An, Hiệp ước Hác-măng (1883) và Hiệp ước Pa-tơ-nốt (1884)

a. Quân Pháp tấn công cửa biển Thuận An.
+ Lợi dụng Tự Đức mất, triều đình lục đục => Pháp quyết định đánh Huế.
- Ngày 18/8/1883, Pháp tấn công Thuận An.
- Chiều ngày 20/8/1883, Pháp đổ bộ lên bờ.
- Tối 20/8/1883, chúng làm chủ Thuận An.

b, Nhà nước phong kiến Nguyễn sụp đổ, Hiệp ước Hác-măng (1883) và Hiệp ước Pa-tơ-nốt (1884).

* Hoàn cảnh lịch sử:
- Nghe tin Pháp tấn công Thuận An,triều đình Huế vội xin đình chiến.
- Lợi dụng sự hèn yếu của triều đình Cao ủy Pháp Hác-măng tranh thủ đi ngay lên Huế đặt điều kiện cho một hiệp ước mới.
- Ngày 25/8/1883, bản hiệp ước mới được đưa ra buộc đại diện triều Nguyễn phải ký kết:
* Nội dung Hiệp ước Hác-măng:
+ Thừa nhận sự "bảo hộ" của Pháp trên toàn cõi Việt Nam.
* Nam Kỳ là thuộc địa.
* Bắc Kỳ là đất bảo hộ.
* Trung Kỳ là triều đình quản lý.
+ Đại diện của Pháp ở Huế trực tiếp điều khiển các công việc ở Trung Kỳ.
+ Ngoại giao của Việt Nam do Pháp nắm giữ.
+ Quân sự: Pháp được tự do đóng quân ở Bắc Kỳ và toàn quyền xử lý quân Cờ Đen, triều đình phải nhận các huấn luyện viên và sĩ quan chỉ huy của Pháp, phải triệt hồi binh lính từ Bắc Kỳ về Kinh đô (Huế)
+ Về kinh tế: Pháp nắm và kiểm soát toàn bộ các nguồn lợi trong nước.
=> Việt Nam trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến.
- Ngày 6/6/1884, Pháp ký với triều đình Huế bản Hiệp ước Pa-tơ-nốt, nhằm xoa dịu dư luận và mua chuộc bọn phong kiến.

Bài 34: Việt Nam trước nguy cơ bị Pháp xâm lược

1. Tình hình Việt Nam giữa thế kỉ XIX
+ Chính trị: Giữa thế kỉ XIX, Việt Nam là một quốc gia độc lập có chủ quyền, song chế độ phong kiến đã lâm vào khủng hoảng, suy yếu trầm trọng.
* Kinh tế
+ Nông nghiệp sa sút mất mùa, đói kém thường xuyên.
+ Công thương nghiệp đình đốn, lạc hậu do chính sách "bế môn tỏa cảng".
+ Quân sự lạc hậu, đối ngoại sai lầm: "cấm đạo", đuổi giáo sĩ.
+ Xã hội: Các cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình bùng nổ khắp nơi.

2. Việt Nam trong bối cảnh các nước phương Đông bị xâm lược (giữa thế kỉ XIX)

- Tư bản phương Tây và Pháp nhòm ngó xâm nhập vào Việt Nam từ rất sớm, bằng con đường buôn bán và truyền đạo.
- Thực dân Pháp đã lợi dụng việc truyền bá Thiên Chúa giáo để xâm nhập vào Việt Nam.

3. Thực dân Pháp tìm cớ can thiệp vào Việt Nam

- Năm 1787, Bá Đa Lộc đã giúp tư bản Pháp can thiệp vào Việt Nam bằng Hiệp ước Véc-xai.
- Năm 1857 Napolêông III lập Hội đồng Nam Kỳ để bàn cách can thiệp vào Việt Nam, đồng thời tích cực chuẩn bị đánh Việt Nam => Việt Nam đứng trước nguy cơ bị thực dân Pháp xâm lược.

Post Vai trò của phong trào khởi nghĩa Yên Thế đối với lịch sử dân tộc Việt Nam

Cuộc chinh phục Việt Nam của thực dân Pháp đến năm 1897 đã hoàn thành về cơ bản. Phong trào vũ trang khởi nghĩa của văn thân sĩ phu được phát động rầm rộ từ miền Trung, rồi nhanh chóng lan ra miền Bắc và vào miền Nam sau khi vua Hàm Nghi rời khỏi kinh thành Huế phát hịch Cần Vương (13-7-1885) đến năm 1896 cũng đã đi vào thời kỳ tàn lụi với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Hương Sơn, Hương Khê và cái chết của chủ tướng Phan Đình Phùng. 

Đành rằng còn có một số thổ hào địa phương nổi dậy ngay từ đầu những ngày thực dân Pháp mới đặt chân tới đất nước ta vẫn cố vượt qua muôn vàn khó khăn của thời kỳ đổi mới để tiếp tục hoạt động, nhưng cũng chỉ đóng khung trong phạm vi nhỏ hẹp từng vùng để rồi dần tan rã. Đặc biệt trong khi đó cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám đứng đầu vẫn tiếp tục hoạt động, tất nhiên trong những điều kiện chiến đấu của thời kỳ mới cũng bắt buộc phải có những điều chỉnh mới về tổ chức lực lượng, cũng như về cách đánh. Nhưng đến đầu tháng 12-1897 hai bên thực dân Pháp và nghĩa quân Yên Thế đã đình chiến lần thứ hai, mỗi bên có những mục đích riêng. Thực dân Pháp thì cố tranh thủ thời gian đình chiến để chuẩn bị thêm điều kiện về lực lượng và vũ khí chờ ngày triệt hạ pháo đài cuối cùng của nhân dân ta và kết thúc giai đoạn bình định quân sự có lợi cho chúng. Còn nghĩa quân Yên Thế thì cũng ra sức củng cố lực lượng, xây dựng căn cứ chuẩn bị đối phó với những cuộc tấn công lớn biết trước thế nào cũng sẽ tới, và bước sang những năm 1909 đến 1913 thì dù cho có hoạt động đi chăng nữa thì cũng chỉ là những đợt sóng cuối cùng của phong trào yêu nước giết giặc hồi đó mà thôi. Để rồi với cuộc tấn công có quy mô lớn của quân đội thực dân Pháp bắt đầu từ ngày 9-1-1909 kéo dài gần một năm trời đến tận đầu tháng 1-1910 mới chấm dứt, sau đó với cái chết bi hùng của thủ lĩnh Hoàng Hoa Thám (10-2-1913) thì phong trào khởi nghĩa Yên Thế mới thật sự chấm dứt.


Ảnh: Đắc Hồng


Có thể khẳng định rằng, trong các phong trào chống Pháp của nhân dân ta trước chiến tranh Thế giới lần thứ nhất (1914-1918) thì cuộc khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám đứng đầu kéo dài lâu nhất (1883-1913) làm cho thực dân Pháp lo ngại nhất và tổn thất nhiều nhất. Đồng thời cũng có thể khẳng định rằng loại hình đấu tranh tự phát của nông dân Yên Thế tuy song song, tồn tại và phát triển cùng với phong trào Cần Vương chống Pháp (1885-1896), nhưng lại có trước, tồn tại lâu dài hơn, lại tương đối độc lập so với phong trào Cần Vương.

Phong trào khởi nghĩa Yên Thế (1883-1913), xét về mặt ý nghĩa và tác dụng của phong trào đối với lịch sử dân tộc Việt Nam, có một vị trí và vai trò vô cùng to lớn.

Trước hết, xin nói về sự chuyển biến tính chất phong trào trong quá trình phát triển. Có thể căn cứ trên các vật biểu hiện để chia quá trình phát triển của phong trào khởi nghĩa Yên Thế ra hai giai đoạn; từ quy tụ, tổ chức, thống nhất lực lượng đến xây dựng địa bàn, tổ chức công tác hậu cần đến bố trí đánh và dành những chiến công oanh liệt. Nhìn chung, có thể khẳng định rằng phong trào nông dân Yên Thế đã đóng góp vào lịch sử quân sự Việt Nam những nét độc đáo về quy mô, cường độ, hiệu quả, cũng như các đặc điểm về chiến thuật, thì tổ chức xây dựng lực lượng và căn cứ làng xã đến tác chiến du kích trên một địa bàn rộng khắp. Nhưng quan trọng hơn cả là do sự chuyển biến tính chất của phong trào yêu nước của nhân dân ta từ những năm cuối thế kỷ XIX sang những năm đầu thế kỷ XX, phong trào nông dân Yên Thế từ một phong trào mang “cốt cách phong kiến” của giai đoạn cuối thế kỷ XIX, nhưng bước sang những năm đầu thế kỷ XX đã hoà dần và chịu ảnh hưởng của phong trào yêu nước cách mạng có tính chất tư sản của nhân dân ta hồi đầu thế kỷ XX. Thể hiện rõ ở chỗ chủ tướng Hoàng Hoa Thám đã có tiếp xúc với các nhà yêu nước của thời kỳ mới như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh để bàn bạc phương thức và việc phối hợp tác chiến trong tình hình mới, việc viện trợ lẫn nhau giữa các phong trào, như với Duy Tân hội, với Đông Kinh nghĩa thục dẫn tới một số sự kiện tiêu biểu, như thành lập đảng Nghĩa Hưng tại Hà Nội và còn có cơ sở ở Bắc Ninh, Nam Định hay vụ Hà Thành đầu độc cuối năm 1908. Để thấy rõ thêm sự chuyển biến tử tưởng của Đề Thám, cần biết thêm hai sự kiện liên quan. Đó là cuối năm 1907, Đề Thám đã có sự tiếp xúc với nhà cách mạng Trung Hoa là Tôn Trung Sơn. Sự kiện thứ hai là cuộc tiếp xúc với Phan Chu Trinh ở Nhật Bản về năm 1906, cuộc tiếp xúc này đã không đạt kết quả nào do sự cách xa nhau giữa Đề Thám và Phan Chu Trinh về tư tưởng và phương pháp quân sự.



Ảnh: Nguồn kho Địa chí - Thư viện tỉnh Bắc Giang

Như vậy là từ một phong trào đấu tranh tự phát của nông dân mang tính chất phong kiến, phong trào khởi nghĩa Yên Thế từ đầu thế kỷ XX đã chuyển sang phạm trù tư sản. Nhưng đúng như nhận định của đồng chí Trường Chinh thì dù có trải qua hai giai đoạn như vậy, nhưng từ đầu đến cuối phong trào khởi nghĩa Yên Thế vẫn là một cuộc đấu tranh tự phát của nông dân với tất cả những đặc điểm vốn có và gắn liền với bất cứ một phong trào nông dân nào khi chưa bắt gặp sự lãnh đạo của giai cấp tiên tiến. Cũng vì vậy mà khi đánh giá các phong trào yêu nước cách mạng đầu thế kỷ XX, trước khi xuất dương tìm đường cứu nước mới, anh thanh niên Nguyễn Tất Thành (sau này là Bác Hồ, là Hồ Chí Minh) đã nhận định rằng phong trào khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo vẫn mang “cốt cách phong kiến” và chính vì hạn chế đó, đặt trong bối cảnh Việt Nam lúc đó, phong trào khởi nghĩa không thể không thất bại trước sức tấn công dồn dập và ác liệt của kẻ thù là thực dân Pháp đang ở trong thế áp đảo. 

Mặc dù cuối cùng thất bại, phong trào khởi nghĩa của nông dân Yên Thế đã giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong sự phát triển không ngừng đi lên của phong trào yêu nước cách mạng của nhân dân ta. Đó là vị trí chuyển tiếp, bản lề từ một cặp phạm trù cũ (phong kiến) sang một phạm trù mới (tư sản), khẳng định truyền thống yêu nước của dân tộc, đồng thời cũng khẳng định tính nhạy bén, khả năng hội nhập, tiếp nhận cái mới, cái tiến bộ của nhân dân ta trong quá trình dựng nước và giữ nước.



Ảnh: Nguồn kho Địa chí - Thư viện tỉnh Bắc Giang

Nói về sự thất bại cuối cùng của cuộc khởi nghĩa oanh liệt của nông dân Yên Thế, có thể nêu ra những nguyên nhân khách quan mà nói, tới đầu thế kỷ XX về cơ bản thực dân Pháp đã hoàn thành cuộc bình định quân sự và củng cố nền thống trị của chúng trên phạm vi cả nước không nói chi đến phong trào văn thân lúc trước đã tan rã từ lâu, từ những năm cuối thế kỷ XIX, mà ngay các phong trào có tính chất tư sản của thời kỳ này trước sự khủng bố gắt gao của quân thù cũng đã trải qua những giờ phút khó khăn nhất. Cho nên dù phong trào nông dân Yên Thế lúc đầu có mạnh nhưng vẫn còn có giới hạn trong một phạm vi nhỏ hẹp, đã thiếu một sự hưởng ứng nhiệt liệt rộng rãi của đông đảo nhân dân toàn quốc. Về chủ quan, nghĩa quân tuy có chiến thuật đúng, nhưng vẫn còn giới hạn hoạt động chủ yếu trong phạm vi địa phương, mà chưa phát động được lòng yêu nước và sức ủng hộ nhiệt liệt của nhân dân địa phương để tranh thủ bồi dưỡng và phát triển, mà nhìn chung vẫn nặng về phòng ngự, thiếu phần chủ động tấn công địch, vì vậy đã bỏ lỡ nhiều dịp có thể tiêu diệt địch.

Nhưng chủ yếu vẫn là do tính thiếu triệt để của phong trào chưa thoát khỏi khuôn khổ chật hẹp của một cuộc khởi nghĩa phong kiến, tuy phong trào khởi nghĩa Yên Thế đã có sự chuyển biến tính chất từ năm 1897 về sau. Cần nói rằng sự chuyển biến tính chất của phong trào khởi nghĩa nông dân Yên Thế còn rất hời hợt, nặng về tác động khách quan bên ngoài hơn là do chính điều kiện nội thân quyết định, cho nên tuy nông dân đã vùng lên, nhưng vẫn không giải quyết được vấn đề ruộng đất là mục tiêu đấu tranh chính đã bao đời họ ôm ấp. Mà một khi còn chưa giải quyết được vấn đề ruộng đất thì lực lượng to lớn của nông dân vẫn chưa được kết hợp, chưa được phát triển, hoà với các lực lượng khác trong dân tộc để tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Phải đợi đến khi giai cấp công nhân xuất hiện thì hai nhiệm vụ phản đế và phản phong của cách mạng mới được đề ra cụ thể và chấp hành triệt để.

Mặc dù cuối cùng thất bại, phong trào khởi nghĩa của nông dân Yên Thế đã đánh dấu một thời kỳ quật khởi oanh liệt, đã chứng minh sức dự trữ hùng hậu của giai cấp nông dân trong lịch sử đấu tranh oanh liệt của dân tộc./.

Post Vai trò của phong trào khởi nghĩa Yên Thế đối với lịch sử dân tộc Việt Nam

Cuộc chinh phục Việt Nam của thực dân Pháp đến năm 1897 đã hoàn thành về cơ bản. Phong trào vũ trang khởi nghĩa của văn thân sĩ phu được phát động rầm rộ từ miền Trung, rồi nhanh chóng lan ra miền Bắc và vào miền Nam sau khi vua Hàm Nghi rời khỏi kinh thành Huế phát hịch Cần Vương (13-7-1885) đến năm 1896 cũng đã đi vào thời kỳ tàn lụi với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Hương Sơn, Hương Khê và cái chết của chủ tướng Phan Đình Phùng. 

Đành rằng còn có một số thổ hào địa phương nổi dậy ngay từ đầu những ngày thực dân Pháp mới đặt chân tới đất nước ta vẫn cố vượt qua muôn vàn khó khăn của thời kỳ đổi mới để tiếp tục hoạt động, nhưng cũng chỉ đóng khung trong phạm vi nhỏ hẹp từng vùng để rồi dần tan rã. Đặc biệt trong khi đó cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám đứng đầu vẫn tiếp tục hoạt động, tất nhiên trong những điều kiện chiến đấu của thời kỳ mới cũng bắt buộc phải có những điều chỉnh mới về tổ chức lực lượng, cũng như về cách đánh. Nhưng đến đầu tháng 12-1897 hai bên thực dân Pháp và nghĩa quân Yên Thế đã đình chiến lần thứ hai, mỗi bên có những mục đích riêng. Thực dân Pháp thì cố tranh thủ thời gian đình chiến để chuẩn bị thêm điều kiện về lực lượng và vũ khí chờ ngày triệt hạ pháo đài cuối cùng của nhân dân ta và kết thúc giai đoạn bình định quân sự có lợi cho chúng. Còn nghĩa quân Yên Thế thì cũng ra sức củng cố lực lượng, xây dựng căn cứ chuẩn bị đối phó với những cuộc tấn công lớn biết trước thế nào cũng sẽ tới, và bước sang những năm 1909 đến 1913 thì dù cho có hoạt động đi chăng nữa thì cũng chỉ là những đợt sóng cuối cùng của phong trào yêu nước giết giặc hồi đó mà thôi. Để rồi với cuộc tấn công có quy mô lớn của quân đội thực dân Pháp bắt đầu từ ngày 9-1-1909 kéo dài gần một năm trời đến tận đầu tháng 1-1910 mới chấm dứt, sau đó với cái chết bi hùng của thủ lĩnh Hoàng Hoa Thám (10-2-1913) thì phong trào khởi nghĩa Yên Thế mới thật sự chấm dứt.


Có thể khẳng định rằng, trong các phong trào chống Pháp của nhân dân ta trước chiến tranh Thế giới lần thứ nhất (1914-1918) thì cuộc khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám đứng đầu kéo dài lâu nhất (1883-1913) làm cho thực dân Pháp lo ngại nhất và tổn thất nhiều nhất. Đồng thời cũng có thể khẳng định rằng loại hình đấu tranh tự phát của nông dân Yên Thế tuy song song, tồn tại và phát triển cùng với phong trào Cần Vương chống Pháp (1885-1896), nhưng lại có trước, tồn tại lâu dài hơn, lại tương đối độc lập so với phong trào Cần Vương.

Phong trào khởi nghĩa Yên Thế (1883-1913), xét về mặt ý nghĩa và tác dụng của phong trào đối với lịch sử dân tộc Việt Nam, có một vị trí và vai trò vô cùng to lớn.

Trước hết, xin nói về sự chuyển biến tính chất phong trào trong quá trình phát triển. Có thể căn cứ trên các vật biểu hiện để chia quá trình phát triển của phong trào khởi nghĩa Yên Thế ra hai giai đoạn; từ quy tụ, tổ chức, thống nhất lực lượng đến xây dựng địa bàn, tổ chức công tác hậu cần đến bố trí đánh và dành những chiến công oanh liệt. Nhìn chung, có thể khẳng định rằng phong trào nông dân Yên Thế đã đóng góp vào lịch sử quân sự Việt Nam những nét độc đáo về quy mô, cường độ, hiệu quả, cũng như các đặc điểm về chiến thuật, thì tổ chức xây dựng lực lượng và căn cứ làng xã đến tác chiến du kích trên một địa bàn rộng khắp. Nhưng quan trọng hơn cả là do sự chuyển biến tính chất của phong trào yêu nước của nhân dân ta từ những năm cuối thế kỷ XIX sang những năm đầu thế kỷ XX, phong trào nông dân Yên Thế từ một phong trào mang “cốt cách phong kiến” của giai đoạn cuối thế kỷ XIX, nhưng bước sang những năm đầu thế kỷ XX đã hoà dần và chịu ảnh hưởng của phong trào yêu nước cách mạng có tính chất tư sản của nhân dân ta hồi đầu thế kỷ XX. Thể hiện rõ ở chỗ chủ tướng Hoàng Hoa Thám đã có tiếp xúc với các nhà yêu nước của thời kỳ mới như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh để bàn bạc phương thức và việc phối hợp tác chiến trong tình hình mới, việc viện trợ lẫn nhau giữa các phong trào, như với Duy Tân hội, với Đông Kinh nghĩa thục dẫn tới một số sự kiện tiêu biểu, như thành lập đảng Nghĩa Hưng tại Hà Nội và còn có cơ sở ở Bắc Ninh, Nam Định hay vụ Hà Thành đầu độc cuối năm 1908. Để thấy rõ thêm sự chuyển biến tử tưởng của Đề Thám, cần biết thêm hai sự kiện liên quan. Đó là cuối năm 1907, Đề Thám đã có sự tiếp xúc với nhà cách mạng Trung Hoa là Tôn Trung Sơn. Sự kiện thứ hai là cuộc tiếp xúc với Phan Chu Trinh ở Nhật Bản về năm 1906, cuộc tiếp xúc này đã không đạt kết quả nào do sự cách xa nhau giữa Đề Thám và Phan Chu Trinh về tư tưởng và phương pháp quân sự.


Như vậy là từ một phong trào đấu tranh tự phát của nông dân mang tính chất phong kiến, phong trào khởi nghĩa Yên Thế từ đầu thế kỷ XX đã chuyển sang phạm trù tư sản. Nhưng đúng như nhận định của đồng chí Trường Chinh thì dù có trải qua hai giai đoạn như vậy, nhưng từ đầu đến cuối phong trào khởi nghĩa Yên Thế vẫn là một cuộc đấu tranh tự phát của nông dân với tất cả những đặc điểm vốn có và gắn liền với bất cứ một phong trào nông dân nào khi chưa bắt gặp sự lãnh đạo của giai cấp tiên tiến. Cũng vì vậy mà khi đánh giá các phong trào yêu nước cách mạng đầu thế kỷ XX, trước khi xuất dương tìm đường cứu nước mới, anh thanh niên Nguyễn Tất Thành (sau này là Bác Hồ, là Hồ Chí Minh) đã nhận định rằng phong trào khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo vẫn mang “cốt cách phong kiến” và chính vì hạn chế đó, đặt trong bối cảnh Việt Nam lúc đó, phong trào khởi nghĩa không thể không thất bại trước sức tấn công dồn dập và ác liệt của kẻ thù là thực dân Pháp đang ở trong thế áp đảo. 

Mặc dù cuối cùng thất bại, phong trào khởi nghĩa của nông dân Yên Thế đã giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong sự phát triển không ngừng đi lên của phong trào yêu nước cách mạng của nhân dân ta. Đó là vị trí chuyển tiếp, bản lề từ một cặp phạm trù cũ (phong kiến) sang một phạm trù mới (tư sản), khẳng định truyền thống yêu nước của dân tộc, đồng thời cũng khẳng định tính nhạy bén, khả năng hội nhập, tiếp nhận cái mới, cái tiến bộ của nhân dân ta trong quá trình dựng nước và giữ nước.





Nói về sự thất bại cuối cùng của cuộc khởi nghĩa oanh liệt của nông dân Yên Thế, có thể nêu ra những nguyên nhân khách quan mà nói, tới đầu thế kỷ XX về cơ bản thực dân Pháp đã hoàn thành cuộc bình định quân sự và củng cố nền thống trị của chúng trên phạm vi cả nước không nói chi đến phong trào văn thân lúc trước đã tan rã từ lâu, từ những năm cuối thế kỷ XIX, mà ngay các phong trào có tính chất tư sản của thời kỳ này trước sự khủng bố gắt gao của quân thù cũng đã trải qua những giờ phút khó khăn nhất. Cho nên dù phong trào nông dân Yên Thế lúc đầu có mạnh nhưng vẫn còn có giới hạn trong một phạm vi nhỏ hẹp, đã thiếu một sự hưởng ứng nhiệt liệt rộng rãi của đông đảo nhân dân toàn quốc. Về chủ quan, nghĩa quân tuy có chiến thuật đúng, nhưng vẫn còn giới hạn hoạt động chủ yếu trong phạm vi địa phương, mà chưa phát động được lòng yêu nước và sức ủng hộ nhiệt liệt của nhân dân địa phương để tranh thủ bồi dưỡng và phát triển, mà nhìn chung vẫn nặng về phòng ngự, thiếu phần chủ động tấn công địch, vì vậy đã bỏ lỡ nhiều dịp có thể tiêu diệt địch.

Nhưng chủ yếu vẫn là do tính thiếu triệt để của phong trào chưa thoát khỏi khuôn khổ chật hẹp của một cuộc khởi nghĩa phong kiến, tuy phong trào khởi nghĩa Yên Thế đã có sự chuyển biến tính chất từ năm 1897 về sau. Cần nói rằng sự chuyển biến tính chất của phong trào khởi nghĩa nông dân Yên Thế còn rất hời hợt, nặng về tác động khách quan bên ngoài hơn là do chính điều kiện nội thân quyết định, cho nên tuy nông dân đã vùng lên, nhưng vẫn không giải quyết được vấn đề ruộng đất là mục tiêu đấu tranh chính đã bao đời họ ôm ấp. Mà một khi còn chưa giải quyết được vấn đề ruộng đất thì lực lượng to lớn của nông dân vẫn chưa được kết hợp, chưa được phát triển, hoà với các lực lượng khác trong dân tộc để tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Phải đợi đến khi giai cấp công nhân xuất hiện thì hai nhiệm vụ phản đế và phản phong của cách mạng mới được đề ra cụ thể và chấp hành triệt để.

Mặc dù cuối cùng thất bại, phong trào khởi nghĩa của nông dân Yên Thế đã đánh dấu một thời kỳ quật khởi oanh liệt, đã chứng minh sức dự trữ hùng hậu của giai cấp nông dân trong lịch sử đấu tranh oanh liệt của dân tộc./.

GS: Đinh Xuân Lâm

nhà nước văn lang


 Sự ra đời của Nhà nước Văn Lang

Sự giải thể của công xã thị tộc và sự ra đời của công xã nông thôn.
Công xã nông thôn là một hình thái xã hội xuất hiện phổ biến vào giai đoạn tan rã của chế độ công xã nguyên thuỷ và quá độ sang xã hội có giai cấp.

Căn cứ vào các di tích khảo cổ thời Hùng Vương từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn ta thấy không những về mặt không gian có sự mở rộng dần và tập trung ở những vùng đồng bằng ven các con sông lớn Bắc bộ, Bắc Trung bộ mà các khu cư trú thường rộng lớn từ hàng nghìn mét vuông cho đến một vài vạn mét vuông và tầng văn hóa khá dày, nhất là giai đoạn Đông Sơn, khu cư trú được mở rộng hơn, có những khu cư trú rộng tới 250.000 m2. Những khu vực cư trú rộng lớn đó là những xóm làng định cư trong đó có một dòng họ chính và còn có một số dòng họ khác cùng sinh sống. Những xóm làng đó dựa trên cơ sở công xã nông thôn (bấy giờ gọi là kẻ, chiềng, chạ). Một công xã bao gồm một số gia đình sống trên cùng một khu vực, trong đó quan hệ huyết thống vẫn được bảo tồn trong công xã bên cạnh quan hệ địa vực (láng giềng).

Sự ra đời của công xã nông thôn là một trong những tiền đề cho sự hình thành quốc gia và nhà nước.

Nhân tố thuỷ lợi và tự vệ cũng đã đóng vai trò rất quan trọng đưa đến sự hình thành lãnh thổ chung và tổ chức nhà nước đầu tiên vào thời Đông Sơn. Từ trong cuộc đấu tranh để khắc phục những trở ngại của thiên nhiên (mưa nguồn, nước lũ, bão tố, phong ba, hạn hán) đòi hỏi mọi thành viên không phải chỉ có trong từng công xã, mà nhiều công xã phải liên kết với nhau để tiến hành các công trình tưới, tiêu nước, đảm bảo cho sự phát triển một nền kinh tế mà nông nghiệp trồng lúa nước là chủ đạo.

Nước ta lại ở vào vị trí chiến lược của vùng Đông Nam Á, nằm trên các đầu mối giao thông thuỷ bộ quan trọng từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây như một đầu cầu từ biển cả tiến vào đất liền. Đây cũng là nơi giao lưu kinh tế, văn hóa thuận lợi và cũng là nơi xảy ra nhiều đụng độ và nhiều mối đe doạ ngoại xâm. Yêu cầu liên kết, thống nhất lực lượng để tự vệ cũng không kém phần cấp thiết như yêu cầu liên kết để đấu tranh chống những trở ngại của thiên nhiên.

Sự tăng nhanh về tỷ lệ vũ khí so với hiện vật trong các di tích từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn, đã chứng tỏ một hiện tượng nổi lên ở cuối thời Hùng Vương là xã hội có nhiều mối đe doạ và xung đột. Trong hoàn cảnh như vậy, những yêu cầu nói trên đã có tác động đẩy mạnh sự quần tụ thống nhất cư dân sống trong các địa vực khác nhau có cùng tiếng nói và phong tục thành một cộng đồng cư dân thống nhất. Từ thực tế lịch sử đó, trải qua các thế hệ nối tiếp, ý thức xây dựng và củng cố mối quan hệ gắn bó họ hàng, làng, nước được tăng cường. Điều đó, đã đưa đến sự liên minh giữa nhiều bộ lạc lớn với nhau (mà sử cũ gọi là 15 bộ) thành một lãnh thổ chung do bộ lạc Văn Lang làm trung tâm. Liên minh bộ lạc Văn Lang là ngưỡng cửa của một quốc gia đầu tiên trong lịch sử Việt Nam.

Căn cứ vào phạm vi phân bố của văn hóa Đông Sơn, chúng ta thấy trùng khớp với cương vực của Văn Lang thời Hùng Vương. Cương vực đó có 15 bộ lạc lớn, bên cạnh những bộ lạc nhỏ khác sinh sống, có mối quan hệ láng giềng chặt chẽ do có quá trình cùng chung sống bên nhau, có chung một số phận lịch sử, một nhu cầu để tồn tại và phát triển, đã dần dần tạo nên cho cả cộng đồng cư dân một lối sống chung, văn hóa chung. Và như vậy, từ các đơn vị cộng cư của một xã hội nguyên thuỷ, bộ lạc đã hình thành các đơn vị hành chính (bộ) của một quốc gia cùng với sự hình thành lãnh thổ chung và một tổ chức chung để quản lý và điều hành xã hội.

Nhà nước Văn Lang ra đời

Dựa vào tài liệu khảo cổ học, tài liệu thành văn (sử cũ của Trung Quốc và của nước ta) có thể sơ bộ phác hoạ cấu trúc của nhà nước thời Hùng Vương theo hệ thống 3 cấp của bộ máy cai trị tương ứng với 3 cấp quan chức. Đứng đầu nước Văn Lang là Hùng Vương. Ngôi Hùng Vương cha truyền con nối. Hùng Vương đồng thời là người chỉ huy quân sự, chủ trì các nghi lễ tôn giáo.

Dưới Hùng Vương và giúp việc cho Hùng Vương có các lạc hầu, lạc tướng. Lạc tướng còn trực tiếp cai quản công việc của các bộ. Nước Văn Lang có 15 bộ (trước là 15 bộ lạc). Lạc tướng (trước đó là tù trưởng) cũng thế tập cha truyền con nối, còn gọi là phụ đạo, bố tướng. Dưới bộ là các công xã nông thôn (bấy giờ có tên ghi là kẻ, chạ, chiềng). Đứng đầu kẻ, chạ, chiềng là các bồ chính (có nghĩa là già làng). Bên cạnh bồ chính có lẽ còn có một nhóm người hình thành một tổ chức có chức năng như một hội đồng công xã để tham gia điều hành công việc của công xã nông thôn. Mỗi công xã có nơi trung tâm hội họp, sinh hoạt cộng đồng, thường là một ngôi nhà công cộng.

Căn cứ vào lời tâu của Mã Viện lên vua nhà Hán về tình hình Âu Lạc trước khi nhà Hán xâm lược và đô hộ nước ta, có thể nghĩ rằng, bấy giờ nhà nước Văn Lang đã có pháp luật để điều hành xã hội. Sách Hậu Hán thư viết “luật Việt” khác luật Hán hơn mười việc”. Có lẽ “luật Việt” mà Mã Viện dùng là một thứ luật tục. Sử sách thường ghi cư dân nước ta bấy giờ là người Lạc Việt và quốc hiệu là Văn Lang do vua Hùng đặt.

Đại việt sử lược ghi rằng: Đến đời Trang Vương nhà Chu (696-682 tr.CN) ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu nước là Văn Lang. Việt Vương Câu Tiễn (505-462 tr.CN) cho người đến dụ hàng nhưng Hùng Vương không theo.

Dựa vào các tài liệu và những thành tựu nghiên cứu về thời đại Hùng Vương hiện nay, có thể đoán định có cơ sở rằng thời điểm ra đời của nước Văn Lang với tư cách là một nhà nước sơ khai là vào khoảng thế kỷ VII-VI tr.CN (ở giai đoạn Đông Sơn).

Sự ra đời của nước Văn Lang dù còn sơ khai và có phần sớm khi trong xã hội phân hóa chưa sâu sắc (như do tác động mạnh mẽ của yêu cầu thuỷ lợi và chống ngoại xâm thúc đẩy cho sự ra đời sớm) nhưng đã đánh dấu một bước phát triển mạnh mẽ có ý nghĩa thời đại của lịch sử Việt Nam- mở đầu thời đại dựng nước và giữ nước đầu tiên của dân tộc. 
Chương II

CÁC QUỐC GIA CỔ ĐẠI TRÊN ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM

Lịch sử 10 Bài 23

NƯỚC VĂN LANG – ÂU LẠC


1. Những chuyển biến trong đời sống kinh tế

- Cơ sở hình thành Nhà nước
+ Đầu thiên niên kỷ I TCN, cư dân văn hóa đã biết sử dụng công cụ đồng phổ biến và bắt đầu có công cụ sắt.
+ Nôn nghiệp dùng cày khá phát triển, kết hợp với săn bắn, chăn nuôi và đánh cá.
+ Có sự phân công lao động giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp, nghề gốm và nghề đúc đồng phát triển.
=> Đời sống kinh tế vật chất tiến bộ hơn, phát triển ở trình độ cao hơn hẳn.

2. Những chuyển biến xã hội 

- Thời Đông Sơn, xã hội có sự chuyển biến với sự phân hóa giàu nghèo.

3. Cơ cấu tổ chức nhà nước Văn Lang - Âu Lạc

- Hoàn cảnh ra đời: Sự chuyển biến kinh tế, xã hội đặt ra những yêu cầu mới: Trị thủy, quản lý xã hội, chống giặc ngoại xâm => Nhà nước ra đời đáp ứng những đòi hỏi đó.

• Quốc gia Văn Lang (VII – III TCN)

- Kinh đô: Bạch Hạc ( Việt Trì - Phú Thọ ).
- Tổ chức nhà nước:
+ Đứng đầu đất nước là vua Hùng, vua Thục.
+ Giúp việc có Lạc hầu, Lạc tướng. Cả nước chia làm 15 bộ do Lạc tướng đứng đầu.
+ Ở các làng xã đứng đầu là Bồ chính.

=> Tổ chức bộ máy Nhà nước còn đơn giản, sơ khai.

• Quốc gia Âu Lạc (III – II TCN)

- Kinh đô: Cổ Loa (Đông Anh – Hà Nội).
- Lãnh thổ mở rộng hơn, tổ chức bộ máy nhà nước chặt chẽ hơn.
- Có quân đội mạnh, vũ khí tốt, thành Cổ Loa kiên cố, vững chắc.
=> Nhà nước Âu Lạc có bước phát triển cao hơn Nhà nước Văn Lang.

4. Đời sống vật chất và tinh thần của cư dân Văn Lang Âu Lạc

a. Đời sống vật chất
- Ăn: Gạo tẻ, gạo nếp, thịt cá, rau củ.
- Mặc: Nữ mặc áo, váy, nam đóng khố.
- Ở: nhà sàn.

b. Đời sống tinh thần:- Sùng bái thần linh, thờ cúng tổ tiên.
- Tổ chức cưới xin, ma chay, lễ hội.
- Có tập quán nhuộm răng đen, ăn trầu, xăm mình, dùng đồ trang sức.

=> Đời sống vật chất tinh thần của người Việt cổ khá phong phú, hòa nhập với tự nhiên. 
VIỆT NAM CUỐI THỜI NGUYÊN THỦY


1. Sự ra đời của thuật luyện kim và nghề nông trồng lúa nước

- Cách ngày nay khoảng 4000 – 3000 năm, các bộ lạc trên đất nước ta đã biết đến đồng và thuật luyện kim, nghề trồng lúa phổ biến.
- Thuật luyện kim được thực hiện ở ngay nước ta. Các hiện vật bằng đồng không phải đem từ bên ngoài vào.

2. Những nền văn hóa lớn cuối thời nguyên thủy

a. Phùng Nguyên

+ Địa bàn cư trú ở Bắc bộ: Phú Thọ, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Bắc Giang, Hà Nội.
+ Công cụ lao động: đồ đá, một số nguyên liệu khác như tre, gỗ, nứa xương.
+ Hoạt động kinh tế: Nông nghệp trồng lúa nước, làm gốm, se chỉ dệt vải, chăn nuôi.

b. Sa Huỳnh

+ Địa bàn cư trú miền Trung: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hòa.
+ Công cụ lao động: Đồ đồng.
+ Hoạt động kinh tế: Nông nghiệp trồng lúa và cấy trồng khác, dệt vải, kỹ thuật luyên kim, làm đồ trang sức.

c. Đồng Nai và Óc Eo

+ Địa bàn cư trú Đông Nam Bộ: Đồng Nai, Bình Dương, Long An, TP.HCM.
+ Công cụ lao động: Đồ đá, đồ đồng.
+ Hoạt động kinh tế: Nghề nông trồng lúa nước và các cây lương thực khác, khai thác sản vật rừng, làm nghề thủ công.

- Sự ra đời của thuật luyện kim cách đây khoảng 4000 năm đã đưa các bộ lạc trên nước ta bước vào thời đại sơ kỳ đồng thau, hình thành nên các khu vực khác nhau làm tiền đề cho sự chuyển biến xã hội sau này.

Post Sự ra đời của Nhà nước Âu Lạc

Người Lạc Việt và người Tây Âu vốn từ lâu đã có mối quan hệ kinh tế-văn hóa gần gũi. Thủ lĩnh của nhóm người Tây Âu sống trên đất Văn Lang là Thục Phán. Liên minh bộ lạc Tây Âu ngày càng mạnh lên.

Từ trước cuộc xâm lăng của quân Tần, giữa vua Hùng và họ Thục đã xảy ra một cuộc xung đột kéo dài chưa phân thắng bại. Trong bối cảnh đó, cuộc xâm lăng của quân Tần xảy ra ồ ạt. Đứng trước tình hình mới, hai bên chấm dứt xung đột, cùng chiến đấu chống ngoại xâm. Kháng chiến thắng lợi, Thục Phán với tư cách người chỉ huy chung đã được thay thế Hùng Vương làm vua, đặt tên nước mới là Âu Lạc. Quốc gia Âu Lạc ra đời khoảng đầu thế kỷ III tr.CN.

Nước Âu Lạc là bước kế tục và phát triển cao hơn của nước Văn Lang và trên một phạm vi rộng lớn hơn của người Việt và người Tây Âu. Tổ chức bộ máy nhà nước và các đơn vị hành chính dưới thời Âu Lạc vẫn chưa có gì thay đổi khác với thời Văn Lang của các Vua Hùng. Đứng đầu nhà nước là Thục An Dương Vương. Dưới đó, trong triều vẫn có các Lạc hầu giúp vua cai quản đất nước. Ở các địa phương (bộ) vẫn do các Lạc tướng đứng đầu quản lý. Đơn vị hành chính cấp cơ sở vẫn là các công xã nông thôn (kẻ, chiềng, chạ).

Mặc dù nước Âu Lạc tồn tại không lâu, chỉ trong khoảng từ năm 208 đến năm 179 tr.CN, nhưng về các mặt vẫn tiếp tục được phát triển trên cơ sở kế thừa những thành tựu đã đạt được thời Văn Lang, nhất là trên lĩnh vực quân sự.

Theo tài liệu khảo cổ thì An Dương Vương xây dựng được một đạo quân khá mạnh sử dụng thành thạo cung tên. Các loại vũ khí phong phú, đa dạng và hơn vạn mũi tên đào được ở chân thành Cổ Loa đã chứng tỏ điều đó. Âu Lạc còn có thuỷ quân và được luyện tập khá thường xuyên. Sau khi nước Âu Lạc ra đời, Thục An Dương Vương đã chọn Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội) làm Kinh đô và cho xây dựng thành Cổ Loa kiên cố, trở thành trung tâm của nước Âu Lạc và là một căn cứ quân sự vững chắc, lợi hại.

Thành Cổ Loa nằm ở vị trí trung tâm đất nước vàlà đầu mối của các hệ thống giao thông đường thuỷ. Ở đây có sông Hoàng chảy qua thuận lợi cho việc đi lại quanh vùng, rồi toả đi các nơi, theo sông Hồng, sông Đáy xuôi về đồng bằng rồi ra biển cả hoặc xuôi sông Cầu qua sông Thương, sông Lục Nam lên vùng rừng núi Đông Bắc v.v...

Thành Cổ Loa gồm có 3 vòng thành chính khép kín (thành nội, thành trung, thành ngoại). Thành nội (vòng trong cùng) hình chữ nhật, có chu vi 1650 mét, cao khoảng 5 mét, mặt thành rộng từ 6 đến 12 mét, chân rộng từ 20 đến 30 mét. Thành nội chỉ có 1 cửa thành. Trên mặt thành có 18 ụ đất nhô ra ngoài để làm vọng gác. Những vọng gác này được đắp cao hơn mặt thành từ 1 mét đến 2 mét. Thành trung có 5 cửa. Ở đây cũng có một số ụ đất đắp cao hơn để làm vọng gác. Thành ngoại (vòng ngoài cùng) dài 8 km, cao từ 4 đến 9 mét. Chân thành rộng từ 12-20 mét. Thành có 3 cửa ra vào. Cả 3 vòng thành đều có hào ở phía ngoài. Cả ba hào được nối liền với nhau và nối với sông Hoàng để bảo đảm quanh năm đều có nước, và làm tăng thêm sự hiểm yếu của Kinh thành Cổ Loa. Giữa các vòng thành và phía ngoài thành ngoại có nhiều ụ đất và luỹ chắc chắn.

Với vị trí kiên cố và lợi hại đó, thành Cổ Loa đã góp phần vào chiến thắng vẻ vang của nhân dân Âu Lạc chống các cuộc xâm lược của quân Triệu (trước năm 179 tr.CN).

Quốc gia Văn Lang-Âu Lạc tồn tại trên dưới 500 năm tr.CN. Bằng sức lao động sáng tạo và đấu tranh kiên cường, bền bỉ, người Việt cổ đã xây dựng được cho mình một đất nước phát triển với nhiều thành tựu kinh tế và văn hóa làm nền tảng cho một nền văn minh bản địa đậm đà bản sắc dân tộc.

Trên cơ sở nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước và kết cấu xóm làng bền chặt, cư dân Văn Lang-Âu Lạc tiến hành khai hoang, làm thuỷ lợi, chống ngoại xâm và các hoạt động khác. Cũng từ đó, người Việt cổ bấy giờ đã định hình cho mình một lối sống, cách ứng xử, tâm lý, tôn giáo tín ngưỡng, nghệ thuật, toát lên những đặc điểm của đời sống văn hóa vật chất và tinh thần đặc sắc.

Về đời sống vật chất, thóc gạo là nguồn lương thực chủ yếu của cư dân Văn Lang - Âu Lạc, chủ yếu là gạo nếp. Người bấy giờ dùng gạo nếp để thổi cơm, làm bánh chưng, bánh giầy. Nhiều tài liệu đã ghi lại sự việc trên. Sách Lĩnh nam chích quái ghi rằng ở thời Hùng Vương sản xuất được nhiều gạo nếp, lấy ống tre mà thổi cơm. Rất nhiều chiếc chõ gốm dùng để thổi xôi đã tìm thấy ở các địa điểm thuộc văn hóa Đông Sơn.

Ngoài thóc gạo là nguồn lương thực chính, cư dân Văn Lang-Âu Lạc còn sử dụng các loại cây có củ cung cấp chất bột như củ từ, khoai lang, sắn, củ mài, khoai sọ, rau quả. Lúc thiếu thốn người ta còn dùng các loại cây có bột khác như cây quang lang, búng, báng.

Thức ăn cũng khá phong phú gồm các loại cá, tôm, cua, ốc, hến, ba ba, các loại rau củ (bầu, bí, cà, đậu…). Thức ăn được chế biến bằng nhiều cách khác nhau theo sở thích từng vùng, từng gia đình (đun nấu, nướng, muối, ăn sống…). Nghề chăn nuôi và săn bắn phát triển đã cung cấp thêm nguồn thức ăn có nhiều chất đạm cho mỗi gia đình. Cư dân bấy giờ đã biết chăn nuôi nhiều loại gia súc, gia cầm ở mỗi nhà (trâu, bò, lợn, gà, chó…). Trong số đồ ăn quen thuộc của cư dân Văn Lang –Âu Lạc còn có nhiều loại hoa quả vùng nhiệt đới như vải, nhãn, mơ, mận, chuối, dưa hấu, cam, quýt… Nguồn lương thực và thực phẩm của người Việt cổ thực phong phú, đa dạng, rất giàu chất bột, chất đạm và nhiều chất bổ khác, trong đó lúa gạo là chính. Đây là một biểu hiện của cuộc sống vật chất được nâng cao, cũng là một biểu hiện của sự phát triển kỹ thuật canh tác nông nghiệp của cư dân bấy giờ.

Thời Hùng Vương, người ta cũng đã biết sử dụng nhiều thứ gia vị có nguồn gốc thực vật như gừng, hẹ, riềng, tỏi.

Trong tập quán ăn uống của người Việt cổ bấy giờ phải kể đến tục uống rượu và ăn trầu. Rượu được nhắc nhiều trong các thư tịch cổ, truyện dân gian. Người Văn Lang có thói quen ăn trầu, nhuộm răng đen. Dấu tích hạt cau, quả cau được tìm thấy ở Đông Sơn.

Trang phục của cư dân Văn Lang- Âu Lạc đã phản ánh một phần trình độ phát triển, đầu óc thẩm mỹ và bản sắc văn hóa của người Việt cổ. Do nghề dệt rất phát triển, người Việt cổ đã sản xuất được nhiều loại vải khác nhau từ sợi đay, gai, tơ tằm, bông, nên đã đáp ứng được nhu cầu may mặc của nhân dân. Trong sinh hoạt đời thường, nam thường đóng khố, nữ mặc váy. Khố của nam giới có loại quấn đơn và loại quấn kép. Váy của nữ giới có loại váy quấn và loại váy chui được làm từ một mảnh vải dài, rộng. Nhiều tượng người đàn ông thổi khèn ngồi trên cán đèn Việt Khê hay các tượng người mặc váy dài trên thạp đồng Đào Thịnh đã phản ánh kiểu mặc đó. Phụ nữ ngoài mặc váy còn có yếm che kín ngực, áo xẻ giữa, thắt lưng quấn ngang bụng và khăn quấn đầu.

Vào các ngày lễ hội, trang phục của nam nữ đẹp đẽ hơn: Có mũ lông chim, váy xoè kết bằng lông chim hoặc lá cây và mang nhiều đồ trang sức đẹp (Khuyên tai, hạt chuỗi, nhẫn, vòng tay, vòng ống chân bằng đá, đồng). Sự phát triển kinh tế, nhất là sự phát triển mạnh mẽ của nghề thủ công và kỹ thuật luyện kim đã tạo điều kiện làm phong phú, đa dạng các đồ trang sức. Mặt khác, sự phong phú và dùng phổ biến nhiều loại đồ trang sức đẹp cũng chứng tỏ đời sống vật chất cư dân Văn Lang-Âu Lạc được nâng cao rõ rệt. Về đầu tóc của người bấy giờ có 4 kiểu: Kiểu tóc cắt ngắn, búi tó, tết bím và quấn tóc ngược lên đỉnh đầu. Trên thạp đồng Đào Thịnh (Yên Bái) có tượng nam tóc cắt ngắn ngang vai để xoã. Ở trống đồng Cổ Loa cũng có hiện tượng tương tự. Lối cắt tóc ngắn đến ngang lưng để xõa khá phổ biến ở nam giới thời bấy giờ. Búi tóc cũng rất phổ biến ở cả nam giới và nữ giới. Nhiều người còn có kiểu chít một dải khăn nhỏ giữa trán và chân tóc, hoặc có đuôi khăn thả dài phía sau.

Có thể nghĩ rằng, kiểu tóc cắt ngắn buông xõa sau lưng và búi tóc cao là hai kiểu tóc phổ biến nhất của người thời Văn Lang.

Nhà ở có nhiều kiểu cách như nhà sàn, nhà mái cong làm bằng gỗ, tre, nứa. Trên trống đồng Đông Sơn ta thấy có 2 kiểu nhà: nhà sàn mái cong hình thuyền và mái tròn hình mui thuyền, sàn thấp, mái rũ xuống như mái tranh đến tận sàn, có cầu thang lên xuống. Mỗi công xã nông thôn bao gồm một số nhà sàn quần tụ bên nhau trong một địa vực, hình thành những xóm làng định cư lâu dài mà thời đó thường gọi là kẻ, chạ, chiềng.

Trong sinh hoạt gia đình, các vật dụng rất phong phú gồm rất nhiều loại khác nhau như bình, vò, thạp, mâm, chậu, bát bằng đồ gốm hay bằng đồng. Ngoài ra, có những đồ đựng làm bằng tre, nứa, mây, vỏ bầu v.v…

Phương tiện giao thông chủ yếu là thuyền bè trên các con sông, rạch. Thuyền có thuyền độc mộc, thuyền ván với các kiểu loại khác nhau: thuyền chiến, thuyền tải, thuyền bơi trải. Trên bộ còn sử dụng súc vật như voi, trâu, bò, ngựa.

Đời sống tinh thần của cư dân Âu Lạc

Cư dân Văn Lang – Âu Lạc đã đạt đến một trình độ thẩm mỹ, tư duy khoa học khá cao- một biểu hiện của văn minh Văn Lang-Âu Lạc.

Cư dân Văn Lang-Âu Lạc rất giỏi nghề luyện kim. Những sản phẩm đẹp, tiêu biểu như trống đồng, thạp đồng, đồ trang sức bằng đồng đã nói lên kỹ thuật luyện đồng đã đạt đến đỉnh cao (từ cách xây dựng các lò đúc, khuôn đúc, nguyên liệu, pha chế hợp kim, làm hoa văn...). Tuỳ theo chức năng sử dụng của từng loại công cụ mà tạo nên một hợp kim và tỷ lệ giữa các hợp kim phù hợp trong chế tạo đồ đồng của người Đông Sơn. Điều đó thể hiện khá rõ nét trình độ tư duy khá cao của họ. Con người bấy giờ cũng đã biết luyện sắt bằng phương pháp hoàn nguyên trực tiếp thành loại sắt xốp.

Trong quá trình quy tụ các bộ lạc sống trên cùng một phạm vi đất đai để hình thành lãnh thổ chung, quốc gia thống nhất đầu tiên được mở rộng dần từ Văn Lang sang Âu Lạc, là sự biểu hiện thắng thế của xu hướng tư tưởng thống nhất, đoàn kết, hoà hợp so với tư tưởng phân hóa, cục bộ trong các cộng đồng cư dân bấy giờ trước yêu cầu của đất nước (làm thuỷ lợi để phát triển nông nghiệp và chống ngoại xâm). Điều đó cũng nói lên bước tiến bộ, phát triển về mặt tư tưởng, tư duy của cư dân Văn Lang-Âu Lạc.

Từ ý thức cộng đồng cũng đã nảy sinh tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, sùng bái các anh hùng, các thủ lĩnh. Cư dân Văn Lang-Âu Lạc đều có ý thức cùng chung một cội nguồn, một tổ tiên, một tập quán chung là nhuộm răng, ăn trầu.

Bên cạnh tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, người đương thời còn bảo lưu những tàn dư của các hình thức tôn giáo nguyên thuỷ như tín ngưỡng vật tổ, ma thuật, phồn thực với những nghi lễ cầu mong được mùa, giống nòi phát triển. Nhiều phong tục tập quán được định hình đã nói lên sự phong phú và phát triển của đời sống tinh thần trong xã hội Hùng Vương như tục ăn đất, uống nước bằng mũi, tục giã cối (để làm hiệu lệnh, truyền tin), tục cưới xin, ăn hỏi, ma chay, chôn cất người chết (rất phong phú như mộ đất, mộ có quan tài hình thuyền, chôn chồng lên nhau, chôn trong nồi vò úp nhau, chôn theo đồ tuỳ táng bằng hiện vật).

Lễ hội bấy giờ rất phổ biến và thịnh hành, là một bộ phận quan trọng trong đời sống tinh thần của người Văn Lang-Âu Lạc. Lễ hội được tiến hành rải rác quanh năm, trong đó đặc sắc nhất là ngày hội mùa với nhiều nghi lễ như đâm trâu, bò và các hình thức diễn xướng dân gian (đoàn người hoá trang, vừa đi vừa múa, tay cầm giáo, lao, nhạc cụ...). Bên cạnh đó, còn có những hội thi tài, thi sức khoẻ, hội cầu nước, hội mừng năm mới...

Trong cuộc sống, cư dân Hùng Vương rất thích cái đẹp và hướng đẹp, luôn luôn cố gắng để làm tăng thêm vẻ đẹp cho đời. Đồ trang sức, công cụ lao động và đồ dùng trong sinh hoạt cũng như vũ khí không những hết sức phong phú, nhiều hình, nhiều vẻ, mà còn đạt đến một trình độ kỹ thuật và mỹ thuật rất cao, có những cái như là những tác phẩm nghệ thuật. Nghệ thuật Đông Sơn trở thành đỉnh cao của nghệ thuật tạo hình thời Hùng Vương. Nghệ thuật đó vừa phản ánh cuộc sống thường nhật của cư dân Việt cổ vừa thể hiện mối quan hệ giữa người với thế giới chung quanh. Những đường nét có tính ước lệ, cách điệu và một bố cục cân xứng, hài hoà trong nghệ thuật Đông Sơn đã thể hiện điều đó.

Nghệ thuật âm nhạc rất phát triển. Nhạc cụ gồm có nhiều loại (bộ gõ, bộ hơi,...). Trong các nhạc cụ, tiêu biểu là trống đồng. Kết cấu trống đồng gồm có phần tang phình, phần thân và chân trống loe ra giúp cho hình dáng trống đẹp mà có sức cộng hưởng làm cho âm thanh vang xa. Cư dân bấy giờ biết sử dụng nhiều nhạc cụ phối hợp trong các lễ hội. Trên trống đồng Đông Sơn có cảnh sử dụng dàn trống đồng từ 2 đến 4 chiếc, dàn cồng từ 6 đến 8 chiếc và một tốp người vừa múa, vừa sử dụng những nhạc khí khác nhau như chuông, khèn, sênh. Trên trống đồng có hình ảnh người nhảy múa hoá trang và múa vũ trang. Có tượng đồng Đông Sơn thể hiện hai người cõng nhau, vừa thổi khèn, vừa nhảy múa. Trống đồng Đông Sơn (loại I theo sự phân loại của F.Hêgơ) là loại trống đồng sớm nhất, đẹp nhất, được sử dụng phổ biến với tư cách là một nhạc khí quan trọng trong các buổi tế, lễ, hội hè, ca múa.

Trống đồng Đông Sơn còn được sử dụng làm hiệu lệnh trong chiến đấu, trong giữ gìn an ninh hoặc làm đồ tuỳ táng. Ngoài ra trống đồng còn được dùng để trao đổi với nước ngoài như Malaixia, Inđônêxia. Trống đồng Đông Sơn có cấu tạo hết sức hài hoà, cân xứng. Mặt trống tròn, giữa có ngôi sao nhiều cánh, phần tang phình, phần thân và chân loe ra làm cho trống có âm thanh vang xa và sức cộng hưởng, từ những âm ban đầu được nhân lên về cường độ. Mặt trống và thân trống đều được trang trí đẹp, thể hiện tài năng hội hoạ, óc thẩm mỹ của người Việt cổ, vừa thể hiện kỹ thuật đúc đồng tinh xảo. Xung quanh ngôi sao nhiều cánh ở giữa mặt trống là những vành tròn đều đặn, cách nhau bằng những đường nét viền hoa văn khác nhau, cân đối, đẹp mắt. Trên mặt trống đồng có nhiều hình người hoá trang lông chim đang múa, nhảy, hát, thổi khèn và các cảnh sinh hoạt khác như giã gạo, đua thuyền, hoặc trang trí hình các con vật như hươu, nai... Những hình trên mặt trống đồng thể hiện một không khí sôi động, hồ hởi trong sinh hoạt của người Việt cổ. Đó là sự phản ánh khá trung thực cuộc sống văn hóa hàng ngày của cư dân bấy giờ.

Trống đồng (Đông Sơn, Ngọc Lũ) với những nét đặc sắc nói trên, là một sản phẩm của lao dộng, một tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu cho trình độ trí tuệ, tài năng sáng tạo tuyệt vời của cư dân Văn Lang-Âu Lạc, là một mặt biểu hiện rõ nét, tập trung của nền văn minh Việt cổ.

Cùng với trống đồng, công trình kiến trúc Cổ Loa cũng là một biểu hiện trình độ phát triển cao của cư dân thời Văn Lang-Âu Lạc.

Tóm lại, sau một thời kỳ dài sống định cư và mở rộng lãnh thổ, phát triển nền kinh tế, với nền nông nghiệp trồng lúa nước là chủ đạo, vượt qua nông nghiệp dùng cuốc, tiến lên nông nghiệp dùng cày (bằng lưỡi cày đồng tiến lên lưỡi cày sắt) có sức kéo là trâu bò được triển khai rộng khắp mọi miền của đất nước Văn Lang-Âu Lạc, cùng với những tiến bộ khác trong đời sống xã hội, người Việt cổ đã đưa xã hội vượt qua thời tiền sử, vượt qua hình thái kinh tế-xã hội nguyên thuỷ sang hình thái kinh tế-xã hội đầu tiên thuộc phạm trù của thời đại văn minh, của xã hội phân hóa giai cấp và có nhà nước. Đồng thời, người Việt cổ cũng đã xây dựng nên một nền văn minh đầu tiên, đó là nền văn minh Văn Lang-Âu Lạc (còn gọi là văn minh sông Hồng). Nền văn minh này có cội nguồn lâu đời của một cư dân nông nghiệp trồng lúa nước ở vùng Bắc bộ và Bắc Trung bộ mang tính bản địa đậm nét, kết tinh trong đó bản lĩnh, truyền thống, cốt cách, lối sống và lẽ sống của người Việt cổ: Chung lưng đấu cật, đoàn kết gắn bó với nhau trong công cuộc lao động và đấu tranh, tình làng, nghĩa nước mặn nồng, tôn trọng người già và phụ nữ, biết ơn và tôn thờ tổ tiên, các anh hùng, nghĩa sĩ v.v...

Nền văn minh Văn Lang-Âu Lạc trải qua một quá trình hình thành và phát triển lâu dài, bắt nguồn từ thời đại đồng thau đến sơ kỳ thời đại sắt cùng với quá trình hình thành quốc gia và nhà nước Hùng Vương-An Dương Vương vào những thế kỷ II-III tr.CN, đã trở thành cội nguồn của các nền văn minh tiếp theo của dân tộc. Bản sắc dân tộc là cội nguồn sức mạnh tinh thần để nhân dân Việt Nam vượt qua được mọi thử thách to lớn trong hơn một nghìn năm Bắc thuộc.