Thứ Bảy, 16 tháng 6, 2012


Bài 39: Phong trào yêu nước và cách mạng Việt Nam đầu thế kỉ XX

1. Hoạt động cứu nước của Phan Bội Châu 
- Nguyên nhân: Nhật Bản cùng màu da, cùng văn hóa Hán Học (đồng chủng, đồng văn), lại đi theo con đường tư bản châu Âu, giàu mạnh lên và đánh thắng đế quốc Nga (1905).
- Lãnh đạo:Phan Bội Châu
- Nét chính hoạt động của phong trào Đông du:
+ Từ năm 1905 đến 1908, đưa HS Việt Nam sang Nhật học,có thời điểm lên tới 200 người.
+ Từ tháng 9/1908, thực dân Pháp cấu kết và yêu cầu Nhật trục xuất những người Việt Nam yêu nước khỏi đất Nhật.
+ Tháng 3/1909, Phan Bội Châu cũng phải rời đất Nhật. Phong trào Đông du tan rã. Hội Duy tân ngừng hoạt động.
- Nguyên nhân thất bại: Do các thế lực đế quốc (Nhật - Pháp) cấu kết với nhau để trục xuất thanh niên yêu nước Việt Nam ở Nhật.

2. Hoạt động cứu nước của Phan Châu Trinh

+ Lãnh đạo:Phan Châu Trình, Huỳnh Thúc Kháng ...
+ Hình thức hoạt động: mở trường diễn thuyết về các vấn đề xã hội, cổ vũ theo cái mới: cắt tóc ngắn, mặc áo ngắn, cổ động mở mang công thương nghiệp...
- Nguyên nhân phong trào :
+ Do chính sách cai trị tàn bạo của thực dân Pháp, nông dân vô cùng khốn khổ về các thứ thuế.
+ Ảnh hưởng của cuộc vận động Duy tân...

3. Đông Kinh nghĩa thục

- Lãnh đạo:Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Lê Đại.
- Phạm vi hoạt động: Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình ...
- Các hoạt động chính: mở trường học các môn học Địa lí, Lịch sử, Khoa học thường thức; tổ chức các buổi bình văn, xuất bản sách báo ...
- Về hoạt động: phạm vi rộng bao gồm nhiều tỉnh; hoạt động trên nhiều lĩnh vực: dạy học, bình văn, xuất bản sách báo ...
- Nội dung dạy và học:Có một số môn học mới: khoa học thường thức, thể dục thể thao, văn nghệ ...
- Thực chất của các hoạt động này là sự chuẩn bị chống Pháp, tuyên truyền tư tưởng dân chủ tư sản, đả phá nền giáo dục lỗi thời, cổ vũ cái mới.

4. Vụ đầu độc binh lính Pháp tại Hà Nội.

- Nguyên nhân:
+ Họ bị phân biệt đối xử. Khi ra trận làm bia đỡ đạn.
+ Phải đàn áp bà con, làng xóm mình.
+ Được các tầng lớp sĩ phu yêu nước vận động binh lính.
- Diễn biến:Ngày 27/6/1908 vụ đầu độc tiến hành, hơn 200 sĩ quan, binh lính trúng độc.
- Tác động: gây tâm lí hoang mang, lo sợ trong sĩ quan binh lính Pháp.
- Ý nghĩa: Thể hiện tinh thần yêu nước và ý thức dân tộc và khả năng tham gia phong trào đấu tranh của binh lính Việt Nam trong quân đội Pháp.

5. Những năm cuối cùng của khởi nghĩa Yên Thế

- Tháng 11/1909, thực dân Pháp dồn lực lượng tấn công Phồn Xương.
- Ngày 10/2/1913, Đề thám bị tay sai Pháp bắt sát hại. Khởi nghĩa nông dân Yên Thế chấm dứt.
Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam . Cuộc kháng chiến ở Đà Nẵng và Gia Định ( 1858-1859)


1. Âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của Pháp
Nguyễn Ánh, sau khi lên ngôi (1802) lấy hiệu Gia Long đã có các chỉ dụ đặc biệt ưu ái đối với các giáo sĩ người Pháp. Tuy vậy, sự hoạt động ráo riết của các thế lực theo đạo thiên chúa và các cố đạo người Âu đã khiến Gia long lo ngại, cảnh giác và đề phòng. Năm 1817. Gia long đã cự tuyệt việc yết kiến của phái bộ Pháp do Lu-i XVIII cử đến, đồng thời cũng cự tuyệt luôn ý đồ của người Pháp muốn thương thuyết trên cơ sở hiệp ước Véc xây. Nhưng rồi nước Pháp ngày càng bị tụt hậu so với Anh về vấn đề thuộc địa, nhất là khi người Anh đã có mặt tại Sinhgapo (1819) rồi đang ráo riết mở các cuộc tấn công vào nội địa Trung quốc - điều đó càng khiến cho Pháp phải nhanh tay hành động, nhằm tìm cách đứng chân ở một căn cứ nào đó gần bể Trung Quốc và sau đó tìm cách chiếm lấy một thuộc địa ở gần Trung Quốc để có thể tham gia vào việc tranh chấp miếng mồi béo bở, đầy hấp dẫn này.

Dưới thời Minh Mạng (1820-1840) đã mấy lần Pháp cử lãnh sự cùng Sứ giả sang Việt Nam yêu cầu thông thương nhưng đã bị từ chối.
Lấy cớ triều đình Việt nam cự tuyệt bang giao và giết giáo sĩ, giáo dân, chính phủ Pháp quyết định dùng vũ lực để thực hiện tham vọng của mình.
Về phía Việt nam thì từ năm 1840 khi Miên Tôn (Thiệu Trị) nối ngôi Phúc Đảm (Minh Mạng), việc cấm đạo tuy có nới tay hơn, nhưng Pháp không vì thế mà ngừng ý đồ xâm lược.

Vốn đã có dã tâm can thiệp vào công việc nội bộ Việt nam từ lâu và đã từng thị phi về vấn đề kế vị Gia long(1), từng kích động sự chống đối của Lê Văn Duyệt với Minh Mạng(2), nay Pháp lại tiếp tục sử dụng con bài công giáo để gây dư luận.

Sau năm 1840, Tạp chí Truyền giáo (Les Annales de la Propagation de la foi) của Hội truyền giáo nước ngoài Paris đã đem những việc sát hại giáo sĩ và giáo đồ ra tuyên truyền, khiến cho một bộ phận thuộc phái hữu xôn xao.Họ yêu cầu chính phủ Pháp phải hành động ngay bằng vũ lực để bảo vệ giáo sĩ và giáo dân Việt Nam.

Ngoài các chiến dịch tuyên truyền tại Pháp, Hội truyền giáo hải ngoại Pháp còn kích động những phần tử bất hảo trong số gần 50 vạn giáo dân, liên tiếp gây ra các vụ rắc rối, gây hận thù lương - giáo, vi phạm luật lệ triều đình... cố làm mục ruỗng xã hội Việt nam bằng cách chia rẽ nội bộ dân tộc ta, đi tới thủ tiêu tinh thần kháng chiến cũng như sức đề kháng của nhân dân ta trước quân xâm lược. Tiến thêm một bước, ngày 25/2/1843 tàu chiến Pháp Heroine vào Đà nẵng. Hạm trưởng Favin Lơvêque xin tha cho 5 giáo sĩ bị kết án tử hình đang còn bị giam ở Phú Xuân... 

Năm 1845 thiếu tướng hải quân Cécile chỉ huy hạm đội Đông Hải phái tàu Alemêne đến Đà Nẵng, yêu cầu thả giám mục Le febvere bị kết án tử hình đang bị giam tại Huế.

Năm 1847 biết ở Phú Xuân không còn có giáo sĩ nào bị giam nữa, chính phủ Pháp mới sai đại tá hải quân Lepierre lên thay Cecile phản đối việc cấm đạo ở Việt Nam và yêu cầu Thiệu Trị để cho dân được tự do theo tôn giáo mới.

Tháng 3 - 1847 hai tàu chiến Pháp tới Đà nẵng. Thuyền trưởng và giáo sĩ Pháp ngang nhiên đi thẳng vào công quán đe dọa. Trấn thủ Đà Nẵng, một mặt không chịu nhận thư của đại diện Pháp, mặt khác ra lệnh cho binh lính sẵn sàng đối phó. Thấy vậy Lapierre đã ra lệnh cho hai tàu chiến Pháp bắn phá 5 chiếc tàu đồng của quân ta rồi cho nổ neo kéo buồm ra khơi. Ngày 15/7/1847 chiến hạm Pháp lại kéo đến bắn phá dữ dội các chiến thuyền của triều đình đậu tại Đà Nẵng. Tình thế trở nên căng thẳng.

Nghe tin quân Pháp hành hung tại Đà Nẵng. Vua Thiệu Trị vô cùng tức giận đã hạ dụ: ”cấm đạo sát tả” (cấm đạo, giết giáo dân) để đối phó, rồi ra lệnh cho các nơi chỉnh trang quân bị, chế tạo thêm khí giới để chuẩn bị kháng chiến.

Tháng 11/1847 Hồng Nhậm (Tự Đức) lên ngôi. Lệnh cấm đạo vẫn tiếp tục được duy trì và có phần còn ráo riết hơn trước. Các giáo sĩ ngoại quốc có nguy cơ không còn chỗ dung thân. Chiến tranh tưởng chừng đã nổ ra đến nơi.Nhưng một lần nữa ở châu Âu, cách mạng Pháp 1848 lại bùng nổ, tư bản Pháp mắc việc ở trong nước nên chưa thực hiện được kế hoạch xâm lăng Việt Nam.

Năm 1852, Lu-i Bô-na-pác (Luis Bonaparte) được sự ủng hộ của cánh đại tư sản phản động ở Pháp lên ngôi hoàng đế lập ra đế chế III, xưng là Na-pô-lê-ông III. Việc chuẩn bị xâm lược Việt nam của Pháp được đẩy mạnh thêm một bước. Năm 1856 Mông-ti-nhi (De Montigni) được vua Pháp Na-pô-lê-ông III phái đến công cán tại khu vực ấn Độ, Trung Quốc, mục đích là điều đình để ký các hiệp ước thương mại thân thiện với Xiêm, thương nghị với vua Việt Nam về việc giao hiếu và thông thương, nhưng vì mắc việc tại Xiêm, Môngtinhi đã phái Lơ-Li-ơ-dơ (LeLieur) hạm trưởng tàu Catinat đem thư trước tới Việt Nam. Ngày 21/9/1856 tàu Catinat tới cửa biển Đà nẵng. Quan trấn thủ Đà Nẵng lại khước từ không tiếp nhận bức thư của Pháp. Lơ-Li-ơ dơ tức giận sai phá các thành lũy của quân ta. Ngày 24 tháng 10 năm 1856 một tuần dương hạm khác do Cô-li-ê chỉ huy lại đến Đà nẵng trực tiếp gửi thư hăm doạ quan đầu tỉnh Quảng Nam. Sau đơ ít lâu, ngày 23/1/1857 Mông ti nhi tới Việt nam. Sau nửa tháng thương thuyết không có kết quả Mông-ti-nhi bỏ về nước. Cùng về Pháp với Mông-ti-nhi có giám mục Pen-lơ-ranh (Pellerin), bấy lâu nay vẫn lẩn lút ở Việt Nam và trốn được xuống tàu Catinat. Pen-lơ-ranh đem tình hình cấm đạo và sát tả ở Việt Nam ra tuyên truyền rồi ra sức xúi dục Chính phủ Pháp hành động bằng vũ lực.

Ngay sau đó, một cơ quan chuyên nghiên cứu vấn đề Việt Nam của Pháp đã được lập ra vào ngày 22-4-1857 lấy tên là Uỷ ban Nam kì. Lá cờ ”bảo hộ công giáo” được giương lên để chuẩn bị cho cuộc hành binh xâm lược.
Chỉ mấy ngày sau khi thành lập, theo lệnh của Na-pô-lê-ông III Uỷ ban Nam Kì đã họp ròng rã ba tuần liền (từ 28-4-1857) để quyết định kế hoạch đánh chiếm Việt Nam.Trong các cuộc họp này Uỷ ban Nam kì đã toan dựa vào văn bản của hiệp ước Véc-xây (1787) để hợp pháp hoá việc đem quân xâm lược nước ta và chủ trương điều động gấp rút quân đội sang chiếm ba đô thị lớn là Sài gòn, Đà nẵng và Kẻ Chợ (Hà Nội) biến Việt Nam thành đất thuộc Pháp, biến triều đình Nguyễn thành tay sai, phục vụ đắc lực lợi ích của bọn thực dân...

Tháng 7-857 Na-pô-lê-ông duyệt y kế hoạch xâm lược vũ trang của uỷ ban Nam kì, giao cho Bộ hải quân Pháp thực hiện. Vừa lúc có hai giáo sĩ Tây Ban Nha bị triều đình Nguyễn sát hại ở Bắc kỳ (hai giáo sĩ này cùng hoạt động trong Hội truyền giáo nước ngoài Pháp), Na-pô-lê-ông III và Giáo hội Pháp đã thương nghị với Chính phủ Tây Ban Nha phối hợp hành động.

Tháng 7-857 Na-pô-lê-ông duyệt y kế hoạch xâm lược vũ trang của uỷ ban Nam kì, giao cho Bộ hải quân Pháp thực hiện. Vừa lúc có hai giáo sĩ Tây Ban Nha bị triều đình Nguyễn sát hại ở Bắc kỳ (hai giáo sĩ này cùng hoạt động trong Hội truyền giáo nước ngoài Pháp), Na-pô-lê-ông III và Giáo hội Pháp đã thương nghị với Chính phủ Tây Ban Nha phối hợp hành động.

2. Liên quân Pháp - Tây Ban Nha nổ súng xân lược Việt Nam

Chiều ngày 31/8/1858 liên quân Pháp - Tây Ban Nha do Rigault de Genouilly (Giơnuiy) chỉ huy dàn trận trước cửa biển Đà nẵng. Quân Pháp có 2.500 tên, bố trí trên 13 chiếc thuyền được trang bị vũ khí hiện đại. Tây Ban Nha góp thêm 1 chiến thuyền và 450 lính.

Dụng ý của Pháp là sau khi chiếm được Đà nẵng, sẽ tiến thẳng ra Huế, buộc triều đình Huế đầu hàng bẻ gãy ý chí kháng chiến của đối phương.
Sáng ngày 1/9/1858 Pháp gửi tối hậu thư cho quan trấn thủ thành Đà nẵng là Trần Hoàng hạn trong 2 giờ đồng hồ phải trả lời. Vì phải đợi lệnh triều đình nên Trần Hoàng cứ án binh bất động. Chưa hết 2 giờ hẹn quân Pháp đã nổ súng dữ dội bẵn phá các mục tiêu trên bờ rồi đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà.

Quân các đồn bên ta bắn trả nhưng vì vũ khí lạc hậu nên không gây cho quân địch tổn thất.

Được tin bán đảo Sơn Trà rơi vào tay giặc, Tự Đức lệnh cho các quân thứ cấp tốc tiếp ứng. Nguyễn Tri Phương (đang làm kinh lược sứ lục tỉnh Nam Kì) được điều ra làm Tổng thống quân thứ Quảng Nam, gấp rút chấn chỉnh quân ngũ và thống nhất chỉ huy chống giặc. Nguyễn Tri Phương cho thực hiện kế hoạch gồm hai điểm chính: Thứ nhất là tổ chức cho dân lùi sâu vào nội địa, làm vườn không nhà trống, triệt để bất hợp tác với giặc. Thứ hai là triệt để phòng ngự, ra sức đào hào đáp luỹ cản giặc, không cho giặc đánh lan ra.

Hưởng ứng kế hoạch của Nguyễn Tri Phương, các lực lượng dân binh cùng nhân dân địa phương ra sức đào hào đắp lũy, phối hợp với quân của triều đình chặn đánh tàu địch. Những đội dân quân bao gồm “tất cả những người không đau yếu và tàn tật” được thành lập, chiến đấu vô cùng quả cảm.

Phối hợp với mặt trận Đà nẵng, nhân dân Nam bộ cùng với quân đội triều đình cơi cao thêm thành lũy,củng cố thêm hệ thống phòng thủ. Đội nghĩa binh của Trương Định được tập hợp, ra sức tập luyện, chuẩn bị đánh Pháp. 

Tiếng súng xâm lăng của quân Pháp ở Đà Nẵng đã thổi bùng ngọn lửa yêu nước trong nhân dân. Đốc học Nam Định Phạm Văn Nghị tập hợp 300 người - vốn là những học trò của mình, khăn gói lên đường Nam tiến, xin Vua ra chiến trường giết giặc.

Nhờ có sự ủng hộ tích cực của nhân dân, Nguyễn Tri Phương đã tạm thời đẩy lui được quân địch ở Đà Nẵng, dồn chúng về phía biển. Thêm vào những tổn thất bước đầu do cuộc kháng chiến anh dũng của nhân dân Việt Nam gây nên là sự khắc nghiệt về thời tiết, thuỷ thổ khiến quân Pháp bị ốm đau rất nhiều.

Sau 5 tháng hành binh xâm lược, quân Pháp chỉ chiếm được bán đảo Sơn Trà và đồn Đông. Kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của chúng bước đầu bị phá sản. Tuy nhiên đại quân của Nguyễn Tri Phương, do áp dụng chiến thuật phòng thủ bị động nên cũng không tiêu diệt được hết quân thù và cũng không đuổi được chúng ra khỏi Đà Nẵng.

Bị thất bại trong kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh tháng 2-1859 Giơnuiy buộc phải để một toán quân nhỏ ở lại Đà Nẵng còn mình thì kéo đại quân vào Gia Định, nhằm cắt nguồn tiếp tế lương thực của triều đình Huế, đồng thời cũng để chuẩn bị cho việc mở rộng cuộc hành quân sang Căm Pu Chia 

Chiếm lục tỉnh Nam kỳ, quân Pháp một mặt muốn gấp rút phong toả miền Nam Việt Nam, nơi mà tư bản Anh sau khi chiếm Singapo và Hương cảng cũng đang gấp rút nhòm ngó, đồng thời chúng còn tính tới một tương lai xa hơn: thăm dò đường sông Mêkông, tìm đường thâm nhập vào vùng Tây Nam Trung quốc - một thị trường rộng lớn, dân cư đông đúc và còn lạc hậu. Vào Tây Nam Trung quốc theo con đường này sẽ tránh cho Pháp khỏi phải chạm trán với người Anh ở vùng ven biển Trung Hoa, nhất là không phải đọ súng với lực lượng hải quân đáng gờm của họ.

Ngày 9/2/1859 quân Pháp tập trung ở Vũng tàu gồm 20 chiến thuyền trong đó có 4 tàu buôn chở lương thực.

Ngày 10/2 chúng công phá pháo đài Phúc Thắng ở núi Lại Sơn (thuộc tỉnh Biên hòa). Sau đó tàu Pháp theo sông Cần Giờ tiến vào Gia Định. Trong vòng 6 ngày liên tiếp, quân Pháp vừa đi vừa đánh phá các đồn bốt và các ụ cản trên sông. Sáng 17/2/1859, chiến thuyền địch tập trung hỏa lực bắn vào thành Gia Định - một thành lũy được xây dựng từ khi Nguyễn Ánh lấy lại được đất Nam Kỳ. Thời Minh Mạng (1837) thành được xây lại, theo hình vuông, mỗi chiều 475 thước, tường thành được xây bằng đá ong, gạch, đất...

Lúc quân Pháp đến, trong thành có khoảng 1.000 quân Nguyễn và chứa đầy khí giới, lương thực đủ cung cấp cho khoảng 10.000 quân giữ thành trong 1 năm.

Trận chiến diễn ra dữ dội trong suối buổi sáng ngày 17/2. Đến khoảng giữa trưa quân ta phải rút, bỏ lại trong thành 200 đại bác bằng đồng và bằng gang, 20.000 vũ khí các loại, 86.000 kg thuốc súng, 9 chiến thuyền đã đóng và đang đóng nằm dưới ụ. Sau khi Gia Định thất thủ. Vũ Duy Ninh là quan trấn thủ thành sợ trách nhiệm đã treo cổ tự tử, mở đầu cho một chuỗi tự sát của một bầy tôi bất lực dưới trướng Tự Đức.

Trong khi quân Nguyễn liên tiếp thất bại, phải rút quân thì thực dân Pháp lại rơi vào thiên la địa võng của cuộc chiến tranh nhân dân ở Nam bộ. Chúng phải giăng lực lượng ra để đối phó với nhiều toán dân binh mọc lên ở khắp nơi ví như toán quân của Lê Huy (trước là quân nhân bị thải hồi), toán quân của Trần Thiện Chính (trước là tri huyện bị triều đình cách chức). Dân các vùng đất mà Pháp chiếm được đều tự tay thiêu huỷ nhà cửa bỏ đi hoặc tự động tổ chức thành đội ngũ đánh giặc.

Giữa lúc đó, toán quân Pháp còn lại ở Đà nẵng cũng đang trong tình thế nguy cấp, giặc phải gấp rút đưa đại binh từ Gia Định ra cứu viện chỉ để lại ở đây một lực lượng nhỏ. Vừa ra đến Đà Nẵng, để củng cố tinh thần binh lính Giơ-nui-y quyết định mở cuộc tấn công vào các đồn Điện Hải, Phúc Ninh, Thạch Giản, mong giành lại thế chủ động nhưng bị thất bại. Gần 100 quân Pháp và Tây Ban Nha bỏ mạng.

Trong tình thế hết sức khốn đốn: bị quân dân Việt Nam bao vây; viện binh không có; chiến tranh Pháp - Áo đã nổ ở châu Âu từ tháng 4-1859; cuộc xung đột Anh - Pháp ở Đông Dương có thể xảy ra và lúc đó số quân Pháp ở Đà nẵng chắc chắn sẽ bị tiêu diệt...

Trong một tình thế bức bách, chính phủ Pháp đã phải ra lệnh cho Giơ-nu-y đưa thư nghị hòa với triều đình Huế.

Để gây áp lực với triều đình, song song với việc đưa thư nghị hoà, Giơnuiy đưa quân đánh phá các vùng ven biển thuộc các tỉnh Bình Định, Quảng Bình, Quảng Trị...

Thái độ bất ngờ của phía Pháp đã gây nên một cuộc bàn luận sôi nổi trong cơ mật viện của triều đình Huế. “Người bàn chiến”, “kẻ bàn hòa”, vô số ý kiến trái ngược nhau, không sao thống nhất (3).

Thương thuyết chưa xong thì liên quân Anh - Pháp khai chiến với Trung Hoa. Hạm đội Pháp phải tham chiến ở Hoàng Hải. Pháp chỉ để lại một ít quân lại chiếm giữ thành Gia định để cầm cự với quân ta còn thì dồn cả sang chiến trường Trung Quốc.

Trước khi rút, Pháp mở rộng phạm vi chiếm đóng quanh thành Gia định, chiếm Chợ lớn - trung tâm thương mại của Nam kỳ lục tỉnh lúc bấy giờ.
Mặc dù với một lực lượng ít ỏi, chỉ chưa đầy 1.000 quân nhưng nhờ chiến thuật ”thủ để hòa” (cố thủ rồi thương thuyết) của triều đình Nguyễn, nên 1.000 quân Pháp vẫn ung dung đi lại, xuôi ngược trên các dòng sông, ra bể, buôn bán kiếm lời, vừa để nuôi quân vừa để mua chuộc một số người giao thương với chúng, biết được tình hình nội địa của ta, dụ được một số người làm tay sai, tạo thêm điều kiện để mở rộng cuộc xâm lăng.

Trong lúc đó, dưới quyền chỉ huy của tổng thống quân vụ đại thần Nguyễn Tri Phương có tới hàng vạn quân song không chủ trương tranh thủ thời cơ tấn công tiêu diệt địch mà suốt trong 1 năm (1860) Nguyễn Tri Phương một mặt án binh bất động, mặt khác chỉ chú tâm huy động quân đội và dân binh xây dựng Đại Đồn (Chí Hòa) với thành lũy kiên cố, tưởng rằng như vậy sẽ có thể làm nản ý chí xâm lăng của giặc. Sự sai lầm trong chiến lược phòng ngự bị động này đã khiến Nguyễn Tri Phương đã không những không đuổi được 1.000 quân giặc đóng trên phòng tuyến các chùa (từ Thị Nghè đến Mai Sơn) dài 10 cây số, có chỗ ta địch cách nhau chưa đầy 500 mét, mà ngược lại, Đại đồn vô hình đã biến thành một cái rọ 3 cây số vuông nhốt hàng ngàn binh lính, chuẩn bị làm mồi cho đạn đại bác có hạt nổ của địch.


Bài 35: Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1858-1884)


I. Kháng chiến ở Đà Nẵng và các tỉnh Nam Kì
1. Trên Mặt trận Đà Nẵng 1858; chiến sự ở Gia Định từ năm 1859 đến năm 1862 (gộp mục 1, 2)

2. Cuộc kháng chiến tiếp tục sau Hiệp ước 1862. Kháng chiến ở miền Tây Nam Kỳ

II. Kháng chiến ở Bắc kỳ lần thứ nhất (1873)
1. Tình hình Việt Nam trước khi Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất.
- Sau khi Pháp chiếm 6 tỉnh Nam Kỳ (1867 tình hình nước ta càng khủng hoảng nghiêm trọng).
+ Về chính trị: Nhà Nguyễn tiếp tục chính sách bảo thủ "bế quan tỏa cảng". Nội bộ quan lại phân hóa bước đầu thành 2 bộ phận chủ chiến, chủ hòa
+ Kinh tế: Ngày càng kiệt quệ.
+ Xã hội: nhân dân bất bình đứng lên đấu tranh chống triều đình ngày càng nhiều.
+ Nhà Nguyễn cự tuyệt những chủ trương cải cách.

2. Cuộc kháng chiến ở Hà Nội và các tỉnh đồng bằng sông Hồng.

- Sau khi thiết lập bộ máy cai trị ở Nam Kỳ, Pháp âm mưu xâm lược Bắc Kỳ.
- Pháp cho gián điệp do thám tình hình miền Bắc.
- Tổ chức các đội quân nội ứng.
- Lấy cớ giải quyết vụ Đuy-puy đang gây rối ở Hà Nội, thực dân Pháp đem quân ra Bắc.
- Ngày 5/11/1873 đội quân Tàu chiến của quân Pháp do Gác-ni-e chỉ huy đến Hà Nội, giở trò khiêu khích quân ta.
- Ngày 19/11/1873 Pháp gửi tối hậu thư cho Tổng đốc thành Hà Nội.
- Không đợi trả lời 20/11/1873 Pháp tấn công thành Hà Nội => chiếm được thành, sau đó mở rộng đánh chiếm các tỉnh đồng bằng sông Hồng.
- Triều đình : Khi Pháp đánh thành Hà Nội, 100 binh lĩnh đã chiến đấu và hi sinh anh dũng tại Ô Quan Chưởng.
- Trung thành, Tổng đốc Nguyễn Tri Phương chỉ huy quân sĩ chiến đấu dũng cảm => Nguyễn Tri Phương hi sinh, thành Hà Nội thất thủ, quân triều đình nhanh chóng tan rã.
- Phong trào kháng chiến của nhân dân:
+ Khi Pháp đến Hà Nội, nhân dân chủ động kháng chiến, không hợp tác với giặc.
- Khi thành Hà Nội thất thủ, nhân dân Hà Nội và nhân dân các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ vẫn tiếp tục chiến đấu => buộc Pháp phải rút về các tỉnh lị cố thủ.
+ Ngày 21/12/1873, quân ta phục kích ở Cầu Giấy, Gác-ni-ê tử trận => Thực dân Pháp hoang mang chủ động thương lượng với triều đình.
- Năm 1874,triều đình kí với thực dân Pháp Hiệp ước Giáp Tuất, dâng toàn bộ 6 tỉnh Nam Kỳ cho Pháp.

3. Tình hình nước ta sau Hiệp ước 1874

- Hiệp ước gây nên làn sóng bất bình trong nhân dân => Phong trào kháng chiến kết hợp giữa chống thực dân với chống phong kiến đầu hàng.
- Nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra ở Bắc Kỳ, tiêu biểu nhất là cuộc khởi nghĩa của Trần Tấn, Đặng Như Mai ở Nghệ - Tĩnh.
- Nội dung chống phong kiến ngày càng rõ nét trong phong trào đấu tranh của nhân dân.
III. Nhân dân Bắc Kì và Trung Kì tiếp tục kháng chiến
1. Thực dân Pháp đánh chiếm Bắc Kì lần thứ hai (1882 - 1883)
- Năm 1882, Pháp vu cáo triều đình Huế vi phạm Hiệp ước 1874 để lấy cớ kéo quân ra Bắc.
- Ngày 3/4/1882, Pháp bất ngờ đổ bộ lên Hà Nội.
- Ngày 25/4/1882, Pháp nổ súng chiếm thành Hà Nội.
- Tháng 3/1883, Pháp chiếm mỏ than Hồng Gai, Quảng Yên, Nam Định.

2. Nhân dân Bắc Kỳ chống Pháp chiếm đóng lần thứ hai

- Quân quân triều đình và Hoàng Diệu chỉ huy quân sĩ chiến đấu anh dũng bảo vệ thành Hà Nội => thành moất, Hoàng Diệu hi sinh. Triều đình hoang mang cầu cứu nhà Thanh.
- Nhân dân dũng cảm chiến đấu chống Pháp bằng nhiều hình thức:
+ Các sĩ phu không thi hành mệnh lệnh của triều đình tiếp tục tổ chức kháng chiến.
+ Nhân dân Hà Nội và các tỉnh tích cực kháng chiến bằng nhiều hình thức sáng tạo.
+ Tiêu biểu có trận phục kích Cầu Giấy lần hai 19/5/1883 => Ri-vi-e bỏ mạng, cổ vũ tinh thần chiến đấu của nhân dân.

3. Quân Pháp tấn công vào cửa biển Thuận An, Hiệp ước Hác-măng (1883) và Hiệp ước Pa-tơ-nốt (1884)

a. Quân Pháp tấn công cửa biển Thuận An.
+ Lợi dụng Tự Đức mất, triều đình lục đục => Pháp quyết định đánh Huế.
- Ngày 18/8/1883, Pháp tấn công Thuận An.
- Chiều ngày 20/8/1883, Pháp đổ bộ lên bờ.
- Tối 20/8/1883, chúng làm chủ Thuận An.

b, Nhà nước phong kiến Nguyễn sụp đổ, Hiệp ước Hác-măng (1883) và Hiệp ước Pa-tơ-nốt (1884).

* Hoàn cảnh lịch sử:
- Nghe tin Pháp tấn công Thuận An,triều đình Huế vội xin đình chiến.
- Lợi dụng sự hèn yếu của triều đình Cao ủy Pháp Hác-măng tranh thủ đi ngay lên Huế đặt điều kiện cho một hiệp ước mới.
- Ngày 25/8/1883, bản hiệp ước mới được đưa ra buộc đại diện triều Nguyễn phải ký kết:
* Nội dung Hiệp ước Hác-măng:
+ Thừa nhận sự "bảo hộ" của Pháp trên toàn cõi Việt Nam.
* Nam Kỳ là thuộc địa.
* Bắc Kỳ là đất bảo hộ.
* Trung Kỳ là triều đình quản lý.
+ Đại diện của Pháp ở Huế trực tiếp điều khiển các công việc ở Trung Kỳ.
+ Ngoại giao của Việt Nam do Pháp nắm giữ.
+ Quân sự: Pháp được tự do đóng quân ở Bắc Kỳ và toàn quyền xử lý quân Cờ Đen, triều đình phải nhận các huấn luyện viên và sĩ quan chỉ huy của Pháp, phải triệt hồi binh lính từ Bắc Kỳ về Kinh đô (Huế)
+ Về kinh tế: Pháp nắm và kiểm soát toàn bộ các nguồn lợi trong nước.
=> Việt Nam trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến.
- Ngày 6/6/1884, Pháp ký với triều đình Huế bản Hiệp ước Pa-tơ-nốt, nhằm xoa dịu dư luận và mua chuộc bọn phong kiến.

Bài 34: Việt Nam trước nguy cơ bị Pháp xâm lược

1. Tình hình Việt Nam giữa thế kỉ XIX
+ Chính trị: Giữa thế kỉ XIX, Việt Nam là một quốc gia độc lập có chủ quyền, song chế độ phong kiến đã lâm vào khủng hoảng, suy yếu trầm trọng.
* Kinh tế
+ Nông nghiệp sa sút mất mùa, đói kém thường xuyên.
+ Công thương nghiệp đình đốn, lạc hậu do chính sách "bế môn tỏa cảng".
+ Quân sự lạc hậu, đối ngoại sai lầm: "cấm đạo", đuổi giáo sĩ.
+ Xã hội: Các cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình bùng nổ khắp nơi.

2. Việt Nam trong bối cảnh các nước phương Đông bị xâm lược (giữa thế kỉ XIX)

- Tư bản phương Tây và Pháp nhòm ngó xâm nhập vào Việt Nam từ rất sớm, bằng con đường buôn bán và truyền đạo.
- Thực dân Pháp đã lợi dụng việc truyền bá Thiên Chúa giáo để xâm nhập vào Việt Nam.

3. Thực dân Pháp tìm cớ can thiệp vào Việt Nam

- Năm 1787, Bá Đa Lộc đã giúp tư bản Pháp can thiệp vào Việt Nam bằng Hiệp ước Véc-xai.
- Năm 1857 Napolêông III lập Hội đồng Nam Kỳ để bàn cách can thiệp vào Việt Nam, đồng thời tích cực chuẩn bị đánh Việt Nam => Việt Nam đứng trước nguy cơ bị thực dân Pháp xâm lược.

Post Vai trò của phong trào khởi nghĩa Yên Thế đối với lịch sử dân tộc Việt Nam

Cuộc chinh phục Việt Nam của thực dân Pháp đến năm 1897 đã hoàn thành về cơ bản. Phong trào vũ trang khởi nghĩa của văn thân sĩ phu được phát động rầm rộ từ miền Trung, rồi nhanh chóng lan ra miền Bắc và vào miền Nam sau khi vua Hàm Nghi rời khỏi kinh thành Huế phát hịch Cần Vương (13-7-1885) đến năm 1896 cũng đã đi vào thời kỳ tàn lụi với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Hương Sơn, Hương Khê và cái chết của chủ tướng Phan Đình Phùng. 

Đành rằng còn có một số thổ hào địa phương nổi dậy ngay từ đầu những ngày thực dân Pháp mới đặt chân tới đất nước ta vẫn cố vượt qua muôn vàn khó khăn của thời kỳ đổi mới để tiếp tục hoạt động, nhưng cũng chỉ đóng khung trong phạm vi nhỏ hẹp từng vùng để rồi dần tan rã. Đặc biệt trong khi đó cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám đứng đầu vẫn tiếp tục hoạt động, tất nhiên trong những điều kiện chiến đấu của thời kỳ mới cũng bắt buộc phải có những điều chỉnh mới về tổ chức lực lượng, cũng như về cách đánh. Nhưng đến đầu tháng 12-1897 hai bên thực dân Pháp và nghĩa quân Yên Thế đã đình chiến lần thứ hai, mỗi bên có những mục đích riêng. Thực dân Pháp thì cố tranh thủ thời gian đình chiến để chuẩn bị thêm điều kiện về lực lượng và vũ khí chờ ngày triệt hạ pháo đài cuối cùng của nhân dân ta và kết thúc giai đoạn bình định quân sự có lợi cho chúng. Còn nghĩa quân Yên Thế thì cũng ra sức củng cố lực lượng, xây dựng căn cứ chuẩn bị đối phó với những cuộc tấn công lớn biết trước thế nào cũng sẽ tới, và bước sang những năm 1909 đến 1913 thì dù cho có hoạt động đi chăng nữa thì cũng chỉ là những đợt sóng cuối cùng của phong trào yêu nước giết giặc hồi đó mà thôi. Để rồi với cuộc tấn công có quy mô lớn của quân đội thực dân Pháp bắt đầu từ ngày 9-1-1909 kéo dài gần một năm trời đến tận đầu tháng 1-1910 mới chấm dứt, sau đó với cái chết bi hùng của thủ lĩnh Hoàng Hoa Thám (10-2-1913) thì phong trào khởi nghĩa Yên Thế mới thật sự chấm dứt.


Ảnh: Đắc Hồng


Có thể khẳng định rằng, trong các phong trào chống Pháp của nhân dân ta trước chiến tranh Thế giới lần thứ nhất (1914-1918) thì cuộc khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám đứng đầu kéo dài lâu nhất (1883-1913) làm cho thực dân Pháp lo ngại nhất và tổn thất nhiều nhất. Đồng thời cũng có thể khẳng định rằng loại hình đấu tranh tự phát của nông dân Yên Thế tuy song song, tồn tại và phát triển cùng với phong trào Cần Vương chống Pháp (1885-1896), nhưng lại có trước, tồn tại lâu dài hơn, lại tương đối độc lập so với phong trào Cần Vương.

Phong trào khởi nghĩa Yên Thế (1883-1913), xét về mặt ý nghĩa và tác dụng của phong trào đối với lịch sử dân tộc Việt Nam, có một vị trí và vai trò vô cùng to lớn.

Trước hết, xin nói về sự chuyển biến tính chất phong trào trong quá trình phát triển. Có thể căn cứ trên các vật biểu hiện để chia quá trình phát triển của phong trào khởi nghĩa Yên Thế ra hai giai đoạn; từ quy tụ, tổ chức, thống nhất lực lượng đến xây dựng địa bàn, tổ chức công tác hậu cần đến bố trí đánh và dành những chiến công oanh liệt. Nhìn chung, có thể khẳng định rằng phong trào nông dân Yên Thế đã đóng góp vào lịch sử quân sự Việt Nam những nét độc đáo về quy mô, cường độ, hiệu quả, cũng như các đặc điểm về chiến thuật, thì tổ chức xây dựng lực lượng và căn cứ làng xã đến tác chiến du kích trên một địa bàn rộng khắp. Nhưng quan trọng hơn cả là do sự chuyển biến tính chất của phong trào yêu nước của nhân dân ta từ những năm cuối thế kỷ XIX sang những năm đầu thế kỷ XX, phong trào nông dân Yên Thế từ một phong trào mang “cốt cách phong kiến” của giai đoạn cuối thế kỷ XIX, nhưng bước sang những năm đầu thế kỷ XX đã hoà dần và chịu ảnh hưởng của phong trào yêu nước cách mạng có tính chất tư sản của nhân dân ta hồi đầu thế kỷ XX. Thể hiện rõ ở chỗ chủ tướng Hoàng Hoa Thám đã có tiếp xúc với các nhà yêu nước của thời kỳ mới như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh để bàn bạc phương thức và việc phối hợp tác chiến trong tình hình mới, việc viện trợ lẫn nhau giữa các phong trào, như với Duy Tân hội, với Đông Kinh nghĩa thục dẫn tới một số sự kiện tiêu biểu, như thành lập đảng Nghĩa Hưng tại Hà Nội và còn có cơ sở ở Bắc Ninh, Nam Định hay vụ Hà Thành đầu độc cuối năm 1908. Để thấy rõ thêm sự chuyển biến tử tưởng của Đề Thám, cần biết thêm hai sự kiện liên quan. Đó là cuối năm 1907, Đề Thám đã có sự tiếp xúc với nhà cách mạng Trung Hoa là Tôn Trung Sơn. Sự kiện thứ hai là cuộc tiếp xúc với Phan Chu Trinh ở Nhật Bản về năm 1906, cuộc tiếp xúc này đã không đạt kết quả nào do sự cách xa nhau giữa Đề Thám và Phan Chu Trinh về tư tưởng và phương pháp quân sự.



Ảnh: Nguồn kho Địa chí - Thư viện tỉnh Bắc Giang

Như vậy là từ một phong trào đấu tranh tự phát của nông dân mang tính chất phong kiến, phong trào khởi nghĩa Yên Thế từ đầu thế kỷ XX đã chuyển sang phạm trù tư sản. Nhưng đúng như nhận định của đồng chí Trường Chinh thì dù có trải qua hai giai đoạn như vậy, nhưng từ đầu đến cuối phong trào khởi nghĩa Yên Thế vẫn là một cuộc đấu tranh tự phát của nông dân với tất cả những đặc điểm vốn có và gắn liền với bất cứ một phong trào nông dân nào khi chưa bắt gặp sự lãnh đạo của giai cấp tiên tiến. Cũng vì vậy mà khi đánh giá các phong trào yêu nước cách mạng đầu thế kỷ XX, trước khi xuất dương tìm đường cứu nước mới, anh thanh niên Nguyễn Tất Thành (sau này là Bác Hồ, là Hồ Chí Minh) đã nhận định rằng phong trào khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo vẫn mang “cốt cách phong kiến” và chính vì hạn chế đó, đặt trong bối cảnh Việt Nam lúc đó, phong trào khởi nghĩa không thể không thất bại trước sức tấn công dồn dập và ác liệt của kẻ thù là thực dân Pháp đang ở trong thế áp đảo. 

Mặc dù cuối cùng thất bại, phong trào khởi nghĩa của nông dân Yên Thế đã giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong sự phát triển không ngừng đi lên của phong trào yêu nước cách mạng của nhân dân ta. Đó là vị trí chuyển tiếp, bản lề từ một cặp phạm trù cũ (phong kiến) sang một phạm trù mới (tư sản), khẳng định truyền thống yêu nước của dân tộc, đồng thời cũng khẳng định tính nhạy bén, khả năng hội nhập, tiếp nhận cái mới, cái tiến bộ của nhân dân ta trong quá trình dựng nước và giữ nước.



Ảnh: Nguồn kho Địa chí - Thư viện tỉnh Bắc Giang

Nói về sự thất bại cuối cùng của cuộc khởi nghĩa oanh liệt của nông dân Yên Thế, có thể nêu ra những nguyên nhân khách quan mà nói, tới đầu thế kỷ XX về cơ bản thực dân Pháp đã hoàn thành cuộc bình định quân sự và củng cố nền thống trị của chúng trên phạm vi cả nước không nói chi đến phong trào văn thân lúc trước đã tan rã từ lâu, từ những năm cuối thế kỷ XIX, mà ngay các phong trào có tính chất tư sản của thời kỳ này trước sự khủng bố gắt gao của quân thù cũng đã trải qua những giờ phút khó khăn nhất. Cho nên dù phong trào nông dân Yên Thế lúc đầu có mạnh nhưng vẫn còn có giới hạn trong một phạm vi nhỏ hẹp, đã thiếu một sự hưởng ứng nhiệt liệt rộng rãi của đông đảo nhân dân toàn quốc. Về chủ quan, nghĩa quân tuy có chiến thuật đúng, nhưng vẫn còn giới hạn hoạt động chủ yếu trong phạm vi địa phương, mà chưa phát động được lòng yêu nước và sức ủng hộ nhiệt liệt của nhân dân địa phương để tranh thủ bồi dưỡng và phát triển, mà nhìn chung vẫn nặng về phòng ngự, thiếu phần chủ động tấn công địch, vì vậy đã bỏ lỡ nhiều dịp có thể tiêu diệt địch.

Nhưng chủ yếu vẫn là do tính thiếu triệt để của phong trào chưa thoát khỏi khuôn khổ chật hẹp của một cuộc khởi nghĩa phong kiến, tuy phong trào khởi nghĩa Yên Thế đã có sự chuyển biến tính chất từ năm 1897 về sau. Cần nói rằng sự chuyển biến tính chất của phong trào khởi nghĩa nông dân Yên Thế còn rất hời hợt, nặng về tác động khách quan bên ngoài hơn là do chính điều kiện nội thân quyết định, cho nên tuy nông dân đã vùng lên, nhưng vẫn không giải quyết được vấn đề ruộng đất là mục tiêu đấu tranh chính đã bao đời họ ôm ấp. Mà một khi còn chưa giải quyết được vấn đề ruộng đất thì lực lượng to lớn của nông dân vẫn chưa được kết hợp, chưa được phát triển, hoà với các lực lượng khác trong dân tộc để tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Phải đợi đến khi giai cấp công nhân xuất hiện thì hai nhiệm vụ phản đế và phản phong của cách mạng mới được đề ra cụ thể và chấp hành triệt để.

Mặc dù cuối cùng thất bại, phong trào khởi nghĩa của nông dân Yên Thế đã đánh dấu một thời kỳ quật khởi oanh liệt, đã chứng minh sức dự trữ hùng hậu của giai cấp nông dân trong lịch sử đấu tranh oanh liệt của dân tộc./.

Post Vai trò của phong trào khởi nghĩa Yên Thế đối với lịch sử dân tộc Việt Nam

Cuộc chinh phục Việt Nam của thực dân Pháp đến năm 1897 đã hoàn thành về cơ bản. Phong trào vũ trang khởi nghĩa của văn thân sĩ phu được phát động rầm rộ từ miền Trung, rồi nhanh chóng lan ra miền Bắc và vào miền Nam sau khi vua Hàm Nghi rời khỏi kinh thành Huế phát hịch Cần Vương (13-7-1885) đến năm 1896 cũng đã đi vào thời kỳ tàn lụi với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Hương Sơn, Hương Khê và cái chết của chủ tướng Phan Đình Phùng. 

Đành rằng còn có một số thổ hào địa phương nổi dậy ngay từ đầu những ngày thực dân Pháp mới đặt chân tới đất nước ta vẫn cố vượt qua muôn vàn khó khăn của thời kỳ đổi mới để tiếp tục hoạt động, nhưng cũng chỉ đóng khung trong phạm vi nhỏ hẹp từng vùng để rồi dần tan rã. Đặc biệt trong khi đó cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám đứng đầu vẫn tiếp tục hoạt động, tất nhiên trong những điều kiện chiến đấu của thời kỳ mới cũng bắt buộc phải có những điều chỉnh mới về tổ chức lực lượng, cũng như về cách đánh. Nhưng đến đầu tháng 12-1897 hai bên thực dân Pháp và nghĩa quân Yên Thế đã đình chiến lần thứ hai, mỗi bên có những mục đích riêng. Thực dân Pháp thì cố tranh thủ thời gian đình chiến để chuẩn bị thêm điều kiện về lực lượng và vũ khí chờ ngày triệt hạ pháo đài cuối cùng của nhân dân ta và kết thúc giai đoạn bình định quân sự có lợi cho chúng. Còn nghĩa quân Yên Thế thì cũng ra sức củng cố lực lượng, xây dựng căn cứ chuẩn bị đối phó với những cuộc tấn công lớn biết trước thế nào cũng sẽ tới, và bước sang những năm 1909 đến 1913 thì dù cho có hoạt động đi chăng nữa thì cũng chỉ là những đợt sóng cuối cùng của phong trào yêu nước giết giặc hồi đó mà thôi. Để rồi với cuộc tấn công có quy mô lớn của quân đội thực dân Pháp bắt đầu từ ngày 9-1-1909 kéo dài gần một năm trời đến tận đầu tháng 1-1910 mới chấm dứt, sau đó với cái chết bi hùng của thủ lĩnh Hoàng Hoa Thám (10-2-1913) thì phong trào khởi nghĩa Yên Thế mới thật sự chấm dứt.


Có thể khẳng định rằng, trong các phong trào chống Pháp của nhân dân ta trước chiến tranh Thế giới lần thứ nhất (1914-1918) thì cuộc khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám đứng đầu kéo dài lâu nhất (1883-1913) làm cho thực dân Pháp lo ngại nhất và tổn thất nhiều nhất. Đồng thời cũng có thể khẳng định rằng loại hình đấu tranh tự phát của nông dân Yên Thế tuy song song, tồn tại và phát triển cùng với phong trào Cần Vương chống Pháp (1885-1896), nhưng lại có trước, tồn tại lâu dài hơn, lại tương đối độc lập so với phong trào Cần Vương.

Phong trào khởi nghĩa Yên Thế (1883-1913), xét về mặt ý nghĩa và tác dụng của phong trào đối với lịch sử dân tộc Việt Nam, có một vị trí và vai trò vô cùng to lớn.

Trước hết, xin nói về sự chuyển biến tính chất phong trào trong quá trình phát triển. Có thể căn cứ trên các vật biểu hiện để chia quá trình phát triển của phong trào khởi nghĩa Yên Thế ra hai giai đoạn; từ quy tụ, tổ chức, thống nhất lực lượng đến xây dựng địa bàn, tổ chức công tác hậu cần đến bố trí đánh và dành những chiến công oanh liệt. Nhìn chung, có thể khẳng định rằng phong trào nông dân Yên Thế đã đóng góp vào lịch sử quân sự Việt Nam những nét độc đáo về quy mô, cường độ, hiệu quả, cũng như các đặc điểm về chiến thuật, thì tổ chức xây dựng lực lượng và căn cứ làng xã đến tác chiến du kích trên một địa bàn rộng khắp. Nhưng quan trọng hơn cả là do sự chuyển biến tính chất của phong trào yêu nước của nhân dân ta từ những năm cuối thế kỷ XIX sang những năm đầu thế kỷ XX, phong trào nông dân Yên Thế từ một phong trào mang “cốt cách phong kiến” của giai đoạn cuối thế kỷ XIX, nhưng bước sang những năm đầu thế kỷ XX đã hoà dần và chịu ảnh hưởng của phong trào yêu nước cách mạng có tính chất tư sản của nhân dân ta hồi đầu thế kỷ XX. Thể hiện rõ ở chỗ chủ tướng Hoàng Hoa Thám đã có tiếp xúc với các nhà yêu nước của thời kỳ mới như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh để bàn bạc phương thức và việc phối hợp tác chiến trong tình hình mới, việc viện trợ lẫn nhau giữa các phong trào, như với Duy Tân hội, với Đông Kinh nghĩa thục dẫn tới một số sự kiện tiêu biểu, như thành lập đảng Nghĩa Hưng tại Hà Nội và còn có cơ sở ở Bắc Ninh, Nam Định hay vụ Hà Thành đầu độc cuối năm 1908. Để thấy rõ thêm sự chuyển biến tử tưởng của Đề Thám, cần biết thêm hai sự kiện liên quan. Đó là cuối năm 1907, Đề Thám đã có sự tiếp xúc với nhà cách mạng Trung Hoa là Tôn Trung Sơn. Sự kiện thứ hai là cuộc tiếp xúc với Phan Chu Trinh ở Nhật Bản về năm 1906, cuộc tiếp xúc này đã không đạt kết quả nào do sự cách xa nhau giữa Đề Thám và Phan Chu Trinh về tư tưởng và phương pháp quân sự.


Như vậy là từ một phong trào đấu tranh tự phát của nông dân mang tính chất phong kiến, phong trào khởi nghĩa Yên Thế từ đầu thế kỷ XX đã chuyển sang phạm trù tư sản. Nhưng đúng như nhận định của đồng chí Trường Chinh thì dù có trải qua hai giai đoạn như vậy, nhưng từ đầu đến cuối phong trào khởi nghĩa Yên Thế vẫn là một cuộc đấu tranh tự phát của nông dân với tất cả những đặc điểm vốn có và gắn liền với bất cứ một phong trào nông dân nào khi chưa bắt gặp sự lãnh đạo của giai cấp tiên tiến. Cũng vì vậy mà khi đánh giá các phong trào yêu nước cách mạng đầu thế kỷ XX, trước khi xuất dương tìm đường cứu nước mới, anh thanh niên Nguyễn Tất Thành (sau này là Bác Hồ, là Hồ Chí Minh) đã nhận định rằng phong trào khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo vẫn mang “cốt cách phong kiến” và chính vì hạn chế đó, đặt trong bối cảnh Việt Nam lúc đó, phong trào khởi nghĩa không thể không thất bại trước sức tấn công dồn dập và ác liệt của kẻ thù là thực dân Pháp đang ở trong thế áp đảo. 

Mặc dù cuối cùng thất bại, phong trào khởi nghĩa của nông dân Yên Thế đã giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong sự phát triển không ngừng đi lên của phong trào yêu nước cách mạng của nhân dân ta. Đó là vị trí chuyển tiếp, bản lề từ một cặp phạm trù cũ (phong kiến) sang một phạm trù mới (tư sản), khẳng định truyền thống yêu nước của dân tộc, đồng thời cũng khẳng định tính nhạy bén, khả năng hội nhập, tiếp nhận cái mới, cái tiến bộ của nhân dân ta trong quá trình dựng nước và giữ nước.





Nói về sự thất bại cuối cùng của cuộc khởi nghĩa oanh liệt của nông dân Yên Thế, có thể nêu ra những nguyên nhân khách quan mà nói, tới đầu thế kỷ XX về cơ bản thực dân Pháp đã hoàn thành cuộc bình định quân sự và củng cố nền thống trị của chúng trên phạm vi cả nước không nói chi đến phong trào văn thân lúc trước đã tan rã từ lâu, từ những năm cuối thế kỷ XIX, mà ngay các phong trào có tính chất tư sản của thời kỳ này trước sự khủng bố gắt gao của quân thù cũng đã trải qua những giờ phút khó khăn nhất. Cho nên dù phong trào nông dân Yên Thế lúc đầu có mạnh nhưng vẫn còn có giới hạn trong một phạm vi nhỏ hẹp, đã thiếu một sự hưởng ứng nhiệt liệt rộng rãi của đông đảo nhân dân toàn quốc. Về chủ quan, nghĩa quân tuy có chiến thuật đúng, nhưng vẫn còn giới hạn hoạt động chủ yếu trong phạm vi địa phương, mà chưa phát động được lòng yêu nước và sức ủng hộ nhiệt liệt của nhân dân địa phương để tranh thủ bồi dưỡng và phát triển, mà nhìn chung vẫn nặng về phòng ngự, thiếu phần chủ động tấn công địch, vì vậy đã bỏ lỡ nhiều dịp có thể tiêu diệt địch.

Nhưng chủ yếu vẫn là do tính thiếu triệt để của phong trào chưa thoát khỏi khuôn khổ chật hẹp của một cuộc khởi nghĩa phong kiến, tuy phong trào khởi nghĩa Yên Thế đã có sự chuyển biến tính chất từ năm 1897 về sau. Cần nói rằng sự chuyển biến tính chất của phong trào khởi nghĩa nông dân Yên Thế còn rất hời hợt, nặng về tác động khách quan bên ngoài hơn là do chính điều kiện nội thân quyết định, cho nên tuy nông dân đã vùng lên, nhưng vẫn không giải quyết được vấn đề ruộng đất là mục tiêu đấu tranh chính đã bao đời họ ôm ấp. Mà một khi còn chưa giải quyết được vấn đề ruộng đất thì lực lượng to lớn của nông dân vẫn chưa được kết hợp, chưa được phát triển, hoà với các lực lượng khác trong dân tộc để tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Phải đợi đến khi giai cấp công nhân xuất hiện thì hai nhiệm vụ phản đế và phản phong của cách mạng mới được đề ra cụ thể và chấp hành triệt để.

Mặc dù cuối cùng thất bại, phong trào khởi nghĩa của nông dân Yên Thế đã đánh dấu một thời kỳ quật khởi oanh liệt, đã chứng minh sức dự trữ hùng hậu của giai cấp nông dân trong lịch sử đấu tranh oanh liệt của dân tộc./.

GS: Đinh Xuân Lâm

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét